Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…
Thành quả 10 năm hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam (1976-1985)
Trong giai đoạn 1976 - 1985, mặc dù gặp nhiều khó khăn như: hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, kinh tế lạc hậu, thế lực thù trong, giặc ngoài luôn tìm cách chia rẽ, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết, hai nước Việt Nam – Lào vẫn đạt được nhiều thành công lớn trên mọi lĩnh vực.
Về lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực chính trị và đối ngoại, hai nước tập trung vào nỗ lực trong việc hiện thực hóa mục tiêu cùng lựa chọn là tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa mà chưa có tiền lệ lịch sử.
Lào tự chủ giải quyết những vấn đề của Lào để ổn định và phát triển như: giữ vững chủ quyền lãnh thổ, duy trì an ninh nội địa, bảo vệ chế độ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục hồi, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, tranh thủ viện trợ nước ngoài. Về phía Việt Nam, sau ngày đất nước thống nhất, mặc dù phải giải quyết nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, nhưng luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ tương hỗ của cách mạng hai nước trong giai đoạn mới: “Lào có ổn định thì Việt Nam mới ổn định và ngược lại”. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng đáp ứng các yêu cầu chi viện và hợp tác với Lào một cách toàn diện, theo tinh thần vô tư “không tính thiệt hơn”.
Thời gian này, lãnh đạo Đảng và Nhà nước của hai quốc gia cũng tiến hành các cuộc gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm về giải quyết các khó khăn, giải tỏa kịp thời các vướng mắc xảy ra, cũng như kinh nghiệm về phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm được lợi ích trực tiếp về an ninh và phát triển ở biên giới phía Tây của mình.
Việc giải quyết thành công vấn đề biên giới giữa hai nước là một thành tựu nổi bật của hợp tác chính trị trong giai đoạn này. Sau 8 năm tiến hành, đến ngày 24-1-1986, việc phân vạch và cắm mốc trên thực địa toàn tuyến biên giới Việt - Lào dài 2.067 km đã hoàn thành.
Trong hai ngày 22 và 23-2-1983, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương diễn ra tại Thủ đô Viêng Chăn. Hội nghị đã nhất trí đề ra 4 nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa ba nước, trong đó nhấn mạnh quan hệ giữa ba nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Tiếp đó, tại Tuyên bố chung Việt Nam - Lào năm 1985, một lần nữa khẳng định quyết tâm của hai bên củng cố hơn nữa tình hữu nghị vĩ đại và tình đoàn kết chiến đấu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo cách mạng hai nước đã dày công vun đắp; tăng cường sự hợp tác toàn diện, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tích cực thực hiện các thỏa thuận giữa hai nước và những thỏa thuận của Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương.
Lĩnh vực quốc phòng, an ninh cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Do tình hình phức tạp trong nước và khu vực, trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của Lào, tháng 12-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Trung tuần tháng 9 năm 1977, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp ước phòng thủ ngày 22-9-1977.
Nhằm giúp Lào xây dựng kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt – Lào, củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc, tháng 6-1978, Binh đoàn 678 (gồm ba sư đoàn bộ binh: 324, 968 và 337) được thành lập và nhận nhiệm vụ quốc tế tại Lào.
Lực lượng quân sự Lào cùng với Sư đoàn bộ binh 324 đã đập tan các âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn của Mỹ và các thế lực thù địch, thu hồi lại nhiều địa bàn quan trọng ở vùng rừng núi của Lào, bảo đảm được an ninh trên các trục đường giao thông chiến lược như các đường 7, 9, 13…
Trên lĩnh vực hợp tác an ninh, thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào - Việt Nam, Bộ Nội vụ Lào đã ký Hiệp định hợp tác toàn diện với Bộ Nội vụ Việt Nam. Nội dung của Hiệp định cho phép lực lượng an ninh của hai nước, ở cả Trung ương và các địa phương quan hệ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, trao đổi các đoàn đại biểu, các đoàn cán bộ lão thành...
Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật giữa hai quốc gia cũng dần thay đổi: từ viện trợ không hoàn lại và cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất kinh doanh bình đẳng cùng có lợi.
Về quan hệ hợp tác thương mại, từ năm 1976 – 1981, trao đổi hàng hoá chính ngạch được bắt đầu theo phương thức bao cấp bằng ngân sách nhà nước mỗi bên. Hiệp định thương mại Việt Nam - Lào 5 năm (1981 – 1985) được ký kết, kèm theo nghị định thư thương mại hàng năm, đã tạo hành lang pháp lý cho việc trao đổi buôn bán giữa hai nước...
Trong lĩnh vực hợp tác văn hóa, Việt Nam và Lào đều nhận thức sâu sắc ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thiết thân của công việc này đối với cả hai bên. Hàng năm, hai bên thường xuyên lập kế hoạch giao lưu văn hoá nghệ thuật dưới các hình thức: trao đổi đoàn biểu diễn, tổ chức sáng tác mỹ thuật, tìm hiểu về chủ đề đất nước và con người, hợp tác xuất bản, in và phát hành sách báo, văn hoá phẩm, phim ảnh. Phối hợp tuyên truyền về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào Việt Nam, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn để tăng cường hiểu biết, gắn bó giữa nhân dân hai nước.
Về hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân, hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh có chung đường biên giới cũng như các tỉnh không có chung biên giới giữa hai nước với nhau luôn giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước. Các địa phương đã phối hợp chặt chẽ về trao đổi đoàn tham quan, cùng giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cũng như cùng tháo gỡ những khó khăn giữa hai nước. Các Hội hữu nghị Việt – Lào, Lào – Việt, cộng đồng người Việt Nam tại Lào đã có nhiều đóng góp đáng kể trong vai trò làm cầu nối quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.
Nói tóm lại, trong 10 năm (1976-1985) thế và lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày càng được củng cố vững chắc. Sự trưởng thành về mọi mặt của Lào đã thể hiện sự tin cậy lẫn nhau giữa Lào và Việt Nam và hiệu quả của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước.
Thành quả mối quan hệ Việt Nam – Lào sau thời kỳ đổi mới (1986-2007)
Ở Lào, tháng 11 – 1986, Đại hội IV đổi mới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào họp và thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng trong công tác lãnh đạo. Tại Việt Nam, Đại hội VI đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành họp vào tháng 12-1986 cũng tự phê bình nghiêm khắc những sai lầm nghiêm trọng.
Kể từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, mặc dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam vẫn tiếp tục được củng cố, tăng cường và đạt những thành tựu to lớn.
Về lĩnh vực chính trị và đối ngoại: Từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước.
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 – 7 - 1989. Đây là chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10-1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm chính thức Việt Nam. Nhân dịp này hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh ủy...sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận.
Quan hệ giữa hai Nhà nước cũng được đẩy mạnh trong thời gian này. Hai nước tăng cường trao đổi thông tin và tham khảo ý kiến của nhau về các vấn đề hợp tác khu vực và quốc tế có liên quan đến quyền lợi của mỗi nước.
Hoạt động ngoại giao nhân dân cũng đạt được nhiều thành tích đáng kể. Hàng năm, các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả.
Hai bên nhất trí phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam từ 1930 – 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.
Trong bối cảnh luôn luôn bị các thế lực thù địch tìm cách chống phá, Việt Nam và Lào xác định hợp tác về quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất cấp bách và quan trọng hàng đầu.
Từ cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, giữa hai Chính phủ, giữa hai bộ chức năng là Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng của hai nước đều ký những hiệp định, những nghị định về hợp tác, hỗ trợ nhau trong công tác bảo vệ an ninh và củng cố quốc phòng. Phía Việt Nam luôn chủ động và đảm nhiệm gánh vác các công việc khó khăn nhất với phương châm “giúp bạn là mình tự giúp mình”, “an ninh của bạn cũng chính là an ninh của mình”...
Chiến công chung nổi bật về hợp tác an ninh – quốc phòng giai đoạn này là việc quân và dân Lào chủ động phối hợp chặt chẽ với quân đội Việt Nam chặn đánh cuộc hành quân “Đông tiến I” và “Đông tiến II” của lực lượng phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh cầm đầu vào Việt Nam qua lãnh thổ Lào trong hai năm 1986 –1987. Bằng việc triển khai rộng khắp chiến lược quốc phòng toàn dân, Lào đã có những cống hiến thực sự vô giá trong vai trò “nút chặn” an ninh ở phòng tuyến phía Tây Việt Nam, giúp Việt Nam phòng thủ từ xa một cách có hiệu quả.
Bước sang giai đoạn 1996 – 2007, trên cơ sở định hướng của thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh, hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Lào tiếp tục tiến hành các cuộc gặp trao đổi, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên môn.
Điểm nổi bật trong việc hợp tác về an ninh thời kỳ này là hiệu quả cao của công tác phòng thủ an ninh có chiều sâu của các lực lượng an ninh và quân đội hai nước chống lại các lực lượng phản động lưu vong đang tìm cách chống phá cách mạng Lào và Việt Nam. Điển hình là trong những năm 2000 – 2007, một số phần tử phản động trong nước Lào được các thế lực thù địch bên ngoài hỗ trợ, gây ra một số vụ nổ, phục kích ở một số địa phương nhưng đều bị lực lượng an ninh Lào phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh Việt Nam ngăn chặn như: vụ đánh cửa khẩu Văng Tàu (Chămpaxắc tháng 7 năm 2000); vụ gây rối mất trật tự an ninh ở Viêng Chăn (tháng 7 năm 2000); vụ bạo loạn vũ trang ở Hủa Phăn (năm 2003); vụ gây rối ở Bò Kẹo (tháng 7 năm 2007).
Trong quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, hợp tác kinh tế trong thời kỳ đổi mới luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, với mong muốn là động lực thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ hợp tác khác.
Ngày 15-2-1992, tại Viêng Chăn, Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật thời kỳ 1992 – 1995 và năm 1992.
Ngày 15-3-1995, tại Hà Nội, Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật đến năm 2000 được ký kết. Ngoài các hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật ký kết hàng năm giữa hai Chính phủ, trong giai đoạn này, Việt Nam và Lào còn ký kết hàng loạt hiệp định và nghị định thư quan trọng nhằm thúc đẩy việc triển khai quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Giáo dục và đào tạo luôn được hai Đảng, hai Nhà nước xác định là một nhiệm vụ quan trọng, là lĩnh vực hợp tác chiến lược và là biểu hiện của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào. Việt Nam coi việc đào tạo cho Lào một nguồn nhân lực có trình độ cao là nhu cầu có tính chiến lược lâu dài, không những của Lào mà còn phục vụ cho quá trình hợp tác của Việt Nam với Lào.
Hợp tác về thương mại và đầu tư cũng là một trong những lĩnh vực quan trọng được hai Đảng, hai Nhà nước đặc biệt quan tâm. Những năm đầu đổi mới, ngành thương mại hai nước xúc tiến nghiên cứu xây dựng đề án, tiến tới đầu tư xây dựng khu thương mại tự do Lao Bảo – Đen Xávẳn, chuẩn bị xây dựng cửa khẩu quốc tế Cầu Treo – Na Pê, mở cửa khẩu phụ và 11 điểm chợ biên giới để thúc đẩy sản xuất và giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa hai nước, đặc biệt là các vùng biên giới Việt Nam – Lào.
Nhìn chung, trong giai đoạn này quan hệ thương mại Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam nói chung, hoạt động kinh tế biên giới nói riêng có những tiến bộ rõ rệt, góp phần đắc lực vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân hai nước.
Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giai đoạn 2006 - 2010 tiếp tục hướng vào mục tiêu ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đào tạo; tăng cường hợp tác phát triển bền vững vùng biên giới hai nước; quan tâm thích đáng hợp tác trên lĩnh vực văn hóa; khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương hợp tác trên cơ sở quản lý thống nhất thông qua các chương trình hợp tác.
Về hợp tác giữa các địa phương và hợp tác biên giới, các tỉnh biên giới và các địa phương kết nghĩa của hai nước đã cử nhiều đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, đoàn thể và các ngành, các cấp…duy trì các hoạt động đối ngoại chính thức, hoặc trao đổi kinh nghiệm, thống nhất quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau trên các lĩnh vực. Công tác đối ngoại nhân dân được chú trọng đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cùng vun đắp mối quan hệ đoàn kết đặc biệt thêm bền chặt. Đặc biệt, hai bên luôn quan tâm và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên được tham gia các hoạt động giao lưu, trao đổi để lớp lớp thế hệ mai sau luôn giữ gìn, bảo vệ và phát triển tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, coi đó là quy luật tồn tại, phát triển của hai nước.
Hơn 30 năm qua, nhất là kể từ sau ngày ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Lào (18-7-1977), bằng quyết tâm chính trị của hai Đảng và quyết tâm điều hành, quản lý của hai Nhà nước, cùng với nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, các địa phương các doanh nghiệp và nhân dân hai nước, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Với những thành quả to lớn đạt được trong giai đoạn 1986 – 2007, quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước đang trở thành yếu tố quyết định trong việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, tạo tiền đề cho việc tăng cường và mở rộng hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên tầm cao mới.