Bộ trưởng Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền trả lời phỏng vấn về công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa.
- Trên cương vị là Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền, đề nghị Bộ trưởng cho biết mục đích, ý nghĩa của công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa?
- Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng có chung đường biên giới dài 2.067km, đi qua 10 cặp tỉnh biên giới phía Tây và Tây Bắc, do vậy, vấn đề biên giới lãnh thổ được lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước hết sức quan tâm, coi trọng. Hai nước đã ký nhiều văn bản pháp lý quan trọng về biên giới lãnh thổ, đặc biệt là “Hiệp ước hoạch định đường biên giới quốc gia giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” ký ngày 18/7/1977, tạo cơ sở chính trị và pháp lý cho việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Từ đó, đường biên giới Việt Nam-Lào đã được hoạch định, phân giới cắm mốc; ghi nhận trong các Hiệp ước hoạch định, Nghị định thư phân giới cắm mốc và các văn bản pháp lý liên quan ký kết giữa hai nước; và được thể hiện rõ ràng trên bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào tỷ lệ 1/50.000 xuất bản năm 2003.
Nhằm xây dựng một hệ thống mốc quốc giới chính quy, hiện đại, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi nước, đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và bảo vệ biên giới trong tình hình mới, từ năm 2008, hai nước đã phối hợp triển khai Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào. Trọng tâm của dự án là tăng dày số lượng mốc, tôn tạo, xây mới mốc hiện có để làm rõ đường biên giới trên thực địa, không tiến hành phân giới lại, đồng thời hoàn thiện hồ sơ pháp lý về đường biên giới Việt Nam-Lào.
Trải qua 05 năm thực hiện, với quyết tâm cao và nỗ lực to lớn của các bộ, ngành, địa phương và nhân dân hai nước, đến hôm nay, chúng ta đã xây dựng được 793 vị trí mốc, tương ứng với 835 cột mốc và cắm bổ sung trên 20 cọc dấu, hoàn thành toàn bộ công tác tăng dày, tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa.
Đây là sự kiện hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc hoàn thành toàn bộ Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào vào năm 2014, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác quản lý và bảo vệ biên giới, cho hợp tác thương mại, đầu tư và giao lưu kinh tế, văn hoá, du lịch của nhân dân vùng biên giới, góp phần củng cố an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng vùng biên giới, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Sự kiện này có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, thể hiện sự nhất trí cao, sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước; là biểu tượng sinh động của mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, vì một đường biên giới hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
- Đề nghị Bộ trưởng cho biết những thuận lợi cũng như thách thức đối với việc triển khai và hoàn thành toàn bộ công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa?
- Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao hai nước, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương và sự ủng hộ của nhân dân hai bên biên giới. Bên Việt Nam có sự tham gia của 7 bộ ngành, 10 tỉnh biên giới; lực lượng trực tiếp tham gia phân giới cắm mốc gần 700 người, chưa kể hàng nghìn lượt người tham gia các công việc đột xuất. Ủy ban Liên hợp cắm mốc biên giới hai nước đã hết sức nỗ lực, phấn đấu hết sức mình để hoàn thành toàn bộ công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa theo đúng thỏa thuận của Lãnh đạo cấp cao hai nước.
Việc hai nước đã hoạch định, phân giới cắm mốc và thể hiện rõ ràng đường biên giới Việt Nam-Lào trên bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào tỷ lệ 1/50.000 bằng phương pháp kỹ thuật hiện đại là thuận lợi cơ bản cho việc xác định vị trí các mốc. Ngoài ra, trên cơ sở tham khảo, rút kinh nghiệm từ việc phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam-Trung Quốc và Việt Nam-Campuchia, việc tổ chức thực hiện Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào đã được đổi mới và hoàn thiện, góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện dự án.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản kể trên, việc triển khai thực hiện Dự án rất nhiều gặp khó khăn. Khu vực biên giới Việt Nam-Lào có địa hình hết sức hiểm trở, thời tiết lại rất khắc nghiệt, công tác khảo sát, vận chuyển nguyên vật liệu, xây dựng gặp nhiều khó khăn, chỉ tính riêng một cột mốc phải cần ít nhất 8 lần tiếp cận: rà phá bom mìn, khảo sát, làm đường, chuyển nguyên vật liệu, xây dựng mốc, đo đạc thông số kỹ thuật... Trong quá trình triển khai công tác này trên thực địa, đã có một số cán bộ, chiến sỹ Việt Nam hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Trong quá trình thực hiện dự án, hai bên cũng phát hiện thấy một số sai khác về địa hình giữa các tài liệu pháp lý, bản đồ, sơ đồ đính kèm và địa hình trên thực địa, đòi hỏi có thêm thời gian, công sức để thống nhất phương án giải quyết, ảnh hưởng nhất định đến tiến độ của dự án.
Khối lượng công việc còn lại của dự án là rất lớn, trong đó có việc xây dựng, đàm phán và ký kết Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam-Lào, thể hiện thành quả của công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc biên giới trên thực địa, đòi hỏi các lực lượng chức năng của cả hai Bên cần phải có quyết tâm cao, có kế hoạch và biện pháp thực hiện khoa học, hợp lý.
Tôi tin tưởng rằng với nỗ lực của cả hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào sẽ được hoàn thành toàn bộ vào năm 2014, góp phần quan trọng xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam-Lào, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân hai nước.