Theo Giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud tại Đại học Paul-Valéry Montpellier 3 (Pháp), Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không chỉ chấm dứt cuộc kháng chiến kéo dài suốt 9 năm chống chủ nghĩa thực dân Pháp, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam và các nước khác trên bán đảo Đông Dương, mà còn có tác động sâu sắc và làm thay đổi thế giới. Mối liên hệ chặt chẽ giữa chiến đấu và đàm phán khiến cuộc chiến Điện Biên Phủ trở thành một “cuộc chiến vì hòa bình”.
Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương (Ảnh tư liệu) |
Giáo sư sử học Pierre Journoud là tác giả nhiều cuốn sách về Việt Nam, trong đó có một số về trận chiến Điện Biên Phủ như: “Hồi ức Điện Biên Phủ: Các nhân chứng lên tiếng” (2004), “Tướng De Gaulle và Việt Nam: 1954-1969”, “Hòa giải”, "Điện Biên Phủ - Sự kết thúc của một thế giới" và "Nghệ thuật chiến tranh Việt Nam”.
Giáo sư Pierre Journoud chia sẻ, vào thời điểm đó tại Pháp, cuộc chiến tại Điện Biên Phủ vẫn được gọi dưới cái tên chiến tranh Đông Dương. Sau 8 năm tham chiến trong một cuộc chiến tranh tốn kém, mà chẳng có một mặt trận và chiến thắng nào, sự mệt mỏi trong nội bộ Quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp đã lên tới đỉnh điểm. Vào tháng 5-1953, Chính phủ Pháp của Thủ tướng René Mayer đã ra lệnh cho Tổng tư lệnh mới là tướng Nava thiết lập một kế hoạch tác chiến nhằm cải thiện tình hình quân sự của Pháp hướng tới một cuộc đàm phán có lợi. Đồng thời, Chính phủ Pháp tìm cách thuyết phục đồng minh Hoa Kỳ rằng Pháp cũng đang muốn xem xét về việc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh đầy tổn thất và gần như vô vọng này.
Ngày 29/11/1953, lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh ngỏ ý ủng hộ đàm phán trong bài phỏng vấn của tờ báo Thụy Điển Expressen. Trong bài báo có nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng ký kết đình chiến nếu Pháp chân thành mong muốn hòa bình và mục tiêu đó phải được thực hiện từ cuộc đàm phán giữa Pháp và Việt Nam.
Giáo sư Pierre Journoud nhận định: Mối liên hệ chặt chẽ giữa chiến đấu và đàm phán khiến Điện Biên Phủ trở thành một “cuộc chiến vì hòa bình”. Bởi vì đối với cả hai bên, trận chiến này nhằm mục đích hướng tới một cuộc đàm phán toàn thể và lệnh ngừng bắn. Do đó, kết quả và quy mô của trận chiến lớn này đã thúc đẩy giải pháp cuối cùng ở Geneva.
Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 rõ ràng là một sự kiện làm thay đổi thế giới vào thời điểm đó. Trận chiến này đã làm rung chuyển hoàn toàn địa chính trị khu vực và thậm chí toàn cầu. Tác động của chiến dịch này tại khu vực châu Á đã được nhận thấy từ lâu. Trận địa Điện Biên Phủ khiến cho Hoa Kỳ tăng cường đáng kể viện trợ tài chính và cơ sở vật chất cho Pháp và trên hết là chuẩn bị kỹ lưỡng hơn các kế hoạch can thiệp có thể có của quân đội Mỹ vào Việt Nam, dù có hay không có lính Pháp. Nói chung, trước thời điểm cuối năm 1954, Hoa Kỳ đã tự coi mình là nhà lãnh đạo ở Đông Nam Á, gây bất lợi cho các cường quốc thực dân châu Âu, trong khi những nước này bắt đầu tập trung lại lợi ích của mình ở châu Âu và châu Phi.
Gần đây, các nhà sử học Pháp đã đề cập đến chuỗi tác động thứ hai ở châu Phi. Tác động của chiến thắng đầu tiên của người dân ở Việt Nam, một đất nước thuộc địa chống lại quân đội liên hiệp Pháp, dường như đã trở thành chất xúc tác, thậm chí là nguồn động viên khích lệ, cho quyết định phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở Algeria cũng như ở Maroc và Tunisia. Trường hợp của người châu Phi ít được nghiên cứu hơn, nhưng thực tế là cuộc kháng chiến của Việt Nam và kết thúc thắng lợi ở Điện Biên Phủ đã truyền cảm hứng cho cuộc kháng chiến vũ trang của nhà hoạt động vì độc lập và chống chủ nghĩa thực dân người Cameroon, Ruben Um Nyobe, ngay cả khi các cuộc đấu tranh ấy không giành được thắng lợi nào.
Giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud khẳng định: 70 năm sau trận Điện Biên Phủ, thật khó để có một câu trả lời duy nhất về quan điểm của người Pháp về sự kiện lịch sử này. Nhìn chung, tôi tin rằng người Pháp cảm thấy ít quan tâm đến quá khứ xa xôi, cả về vấn đề thời gian và không gian, vốn chỉ liên quan đến những người lính thực dân đã đi chiến đấu cách xa 10.000km. Những người có hiểu biết nhất đều biết rằng chiến thắng Điện Biên Phủ hướng Pháp quay về với những kế hoạch khác. Bằng cách chủ động thiết lập mối quan hệ hợp tác với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các nước cộng sản, trong bối cảnh công chúng chỉ trích mạnh mẽ cam kết quân sự của Hoa Kỳ tại bán đảo Đông Dương, Tướng de Gaulle đã tạo điều kiện cho Pháp nối lại quan hệ với Đông Dương, 10 năm sau sự kiện Điện Biên Phủ, với cái nhìn tích cực và nhân văn về bán đảo Đông Dương.
Hai bên đã thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau và tinh thần gắn bó giữa những người từng tham chiến. Điều này giải thích tại sao Điện Biên Phủ lại được các chính trị gia biến thành một cột mốc lịch sử chung đáng trân trọng. Trong chuyến thăm chính thức tới Việt Nam tháng 2-1993, Tổng thống Pháp François Mitterrand đã tới thăm Điện Biên Phủ, rồi tới chuyến thăm kéo dài nửa ngày ở cả hai trận địa cũ của Thủ tướng Édouard Philippe trong khuôn khổ chuyến công du tới Việt Nam vào tháng 11-2018.
Trong cuốn sách “Điện Biên Phủ - Nơi tận cùng thế giới” xuất bản năm 2019, Giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud đã nói về hiện tại và tương lai của Việt Nam và Pháp, khi hai bên dũng cảm vượt qua những ký ức đau thương để xây dựng tình hữu nghị ngày càng tốt đẹp hơn. Quả thực, quan hệ hai nước xích lại gần nhau hơn từ năm 1954. Chính ông Pierre Mendès France, Thủ tướng Pháp và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Trưởng Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đặt những viên gạch đầu tiên trên con đường hòa giải lâu dài này vào tháng 7-1954. Điều này được thể hiện rõ qua cái bắt tay lịch sử giữa hai người tại Hội nghị Geneva. Bất chấp những khó khăn thực sự trong quan hệ song phương vào thời điểm đó, hai nước vẫn đặt ra những cột mốc lâu dài trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế và văn hóa, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin