Công trình, nhà ở trong hành lang bảo vệ đê, không phù hợp với quy hoạch đều phải di dời

17:22, 01/07/2007

Kể từ ngày 1-7, Luật Đê điều bắt đầu có hiệu lực thi hành. Để việc thi hành Luật Đê điều nhanh chóng được áp dụng trong thực tế, ngày 28-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định 113/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đê điều.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tốc độ đô thị hoá và tác động khó lường của thiên tai thì một số nội dung của các quy định cũ không còn phù hợp nữa. Nghị định 113/2007/NĐ-CP đã điều chỉnh một số phạm vi: phân loại và phân cấp đê, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đê điều; nội dung quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê; sử dụng bãi sông nơi chưa có công trình xây dựng; xử lý công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông; cơ cấu tổ chức, sắc phục, phù hiệu, cấp hiệu và chế độ chính sách đối với lực lượng chuyên trách quản lý đê điều.

Nghị định nêu rõ, đê được phân loại thành đê sông, đê biển, đê cửa sông, đê bối, đê bao và đê chuyên dùng.

Nhà nước có các chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực đê điều; đầu tư vào đê điều để kết hợp làm đường giao thông; đầu tư vào việc trồng cây chắn sóng bảo vệ đê điều được hỗ trợ về kinh phí và các quyền lợi khác theo quy định hiện hành.

Nội dung quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê được quy định cụ thể tại Điều 4. Đó là xác định lũ thiết kế của tuyến sông, xác định mực nước lũ báo động để tổ chức hộ đê; xác định và đánh giá vai trò của từng giải pháp: xây dựng hồ chứa nước thượng lưu, trồng rừng phòng hộ đầu nguồn và trồng cây chắn sóng bảo vệ đê, xây dựng và tu bổ đê điều, xác định các vùng phân lũ, làm thông thoáng dòng chảy, tổ chức quản lý và hộ đê.

Việc xây dựng công trình theo dự án đầu tư do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ở bãi sông, để không được làm giảm quá giới hạn cho phép của lưu lượng lũ thiết kế; không làm tăng quá giới hạn cho phép của mực nước lũ thiết kế; không ảnh hưởng đến dòng chảy của khu vực lân cận, thượng lưu, hạ lưu phải đáp ứng các quy định: nằm ngoài phạm vi bảo vệ đê điều; tuân theo quy hoạch phòng, chống lũ, quy hoạch đê điều, quy hoạch sử dụng đất; dự án xây dựng mới phải cách bờ sông một khoảng cách nhất định để thông thoáng dòng chảy, tránh sạt lở; phục vụ việc xây dựng đường ven sông, tạo cảnh quan môi trường.

Các công trình trạm điện, trạm y tế, trường học, trạm cấp nước, nhà kho khi lập dự án xây dựng phải bảo đảm các quy định nêu trên, đồng thời phải cao hơn mực nước thiết kế để hoạt động được thường xuyên và an toàn trong mùa mưa lũ.

Ngoài ra, tại Điều 6 quy định rõ việc xử lý công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông. Theo đó, công trình, nhà ở hiện có trong khu vực đang bị sạt lở phải di dời ngay để bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân. Công trình, nhà ở không phù hợp với quy hoạch do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì phải tổ chức di dời trong thời gian tối đa 5 năm, kể từ ngày Luật Đê điều có hiệu lực thi hành.

Cũng theo Nghị định này, biên chế của Hạt Quản lý đê do UBND cấp tỉnh quyết định theo định mức: một người quản lý trực tiếp từ 1-2 km đê đối với đê cấp đặc biệt, từ 3-4 km đê đối với đê từ cấp I-III. Định mức biên chế quản lý tuyến đê cấp IV, V; tuyến đê và công trình phân lũ, làm chậm lũ do UBND cấp tỉnh quy định.

Lực lượng chuyên trách quản lý đê điều được hưởng các chế độ, chính sách về tiền lương, phụ cấp ưu đãi và chế độ trang bị dụng cụ, thiết bị, phương tiện bảo hộ.