Nón bài thơ xứ Huế

10:42, 05/12/2011

Ai ra xứ Huế mộng mơ / Mua về chiếc nón bài thơ làm quà. Nón bài thơ đã đi vào ca dao và nhiều ca khúc trữ tình, là vật che nắng và trang sức cho các cô gái Việt Nam, là vật hữu nghị đặc sắc của bầu bạn khắp thế giới về Việt Nam…, một vùng quê gốc nỗi tiếng của nó chính là xứ Huế. Và do đó, tên khác của nó cũng thông dụng là nón Huế.

Nón bài thơ như bay đi khắp đất nước, ra cả nước ngoài, song phải ở đất Huế, do các cô gái Huế dùng, lúc đối đầu, khi che nghiêng nửa mặt hòa hợp với chiếc áo dài và quần trắng đoan trang làm nổi bật vẻ đẹp ngoại hình của người mặc. Ở Huế ngay cả quai nón cũng là một nghệ thuật, có khi là giải gấm đen tuyền, nhưng thường là giải lụa trắng bạch hay các màu nhẹ như vàng mỡ gà, hồng ráng chiều, xanh ánh trăng, biếc liễu non, tím e ấp. Màu sắc ấy cũng hợp với cái nắng mưa đa tình ở xứ Huế.

 

Nón bài thơ là bộ phận của văn hóa Huế, nghề làm nón ở Huế không chỉ làm nghề thủ công thuần túy vật chất, mà chính là một hoạt động nghệ thuật vật chất.

 

Ngân vang trong tiếng chuông chùa Thiên mụ là một khoảng không gian rộng mở của dòng Hương giang đang lặng lờ trôi. Trở lại với lịch sử hình thành và phát triển của Huế, theo các nhà sử học, tính từ năm 1306, khi vua Champa dâng 2 Châu Ô, Châu Rí cho nước Đại Việt dưới triều Trần (1225 – 1440) để cầu hôn công chúa Huyền Trân, đến nay Huế đã có ra đời được 700 năm.

 

Có người hỏi rằng, nghề làm nón Huế đã có từ bao giờ? Có lẽ chưa thể có câu trả lời chính xác nhất. Tuy nhiên, theo những ghi chép còn sót lại của Lê Quí Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, khi nhận xét về chiếc nón lá xứ Thuận Hóa ở thế kỷ XVI, XVII đã cho chúng ta biết rằng nghề làm nón lá Huế đã có từ khoảng hơn 300 - 400 năm về trước.

 

Về mặt hình dáng, chất liệu và công dụng, nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước.

 

Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó.

 

Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.

 

 Thoạt trông, chiếc nón lá Huế có vẻ đơn giản như bao chiếc nón khác. Tuy nhiên, để làm được một chiếc nón vừa đẹp vừa nhẹ, bền là cả một nghệ thuật và công phu của những người thợ. Ở mỗi công đoạn đều có sự chuyên môn hóa cao.

 

Từ khâu khai thác vật liệu, gia công lá nón, thiết kế khung, làm vành, sáng tác hoa văn đến khâu nón. Có rất nhiều du khách khi đến Huế tham quan, lúc về không quên mang theo những chiến nón Huế làm quà cho người thân và bè bạn.

 

Để làm được một chiếc nón bài thơ, phải trải qua rất nhiều công đoạn. Toàn bộ qui trình này, chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung và vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. Toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó.

 

Nhưng tinh tế hơn cả vẫn là khâu làm vành. Vành nón được làm từ thân cây lồ ô. Bộ vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: “Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây”.

 

Vùng sơn cước của Thừa Thiên Huế dường như là kho thiên nhiên vô tận để khai thác lá nón. Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa các điều kiện là lá chính đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng.

 

Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.

 

Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm. Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân các làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm, suốt sáng, miệt mài, dường như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần - xa.

 

Vì sao gọi là nón bài thơ? Đó chính là những họa tiết được ghép vào giữa chiếc nón để mỗi khi che nghiêng nón lá trên làn nắng nhẹ, những công trình kiến trúc như chùa Thiên mụ, cầu Tràng Tiền, sông Hương cùng những vần thơ chợt hiện ra, khơi gợi bao cảm xúc trong mỗi người khi nhìn ngắm.

 

Nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi, trên cánh đồng lúa chín vàng ươm, ở chốn đền đài lăng tẩm vươn màu thời gian. Ai ai cũng có thể đội nón Huế. Từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài. Ai ai cũng đều yêu nón Huế. Không chỉ vì vẻ đẹp nên thơ của nón mà còn vì tình yêu của du khách dành cho Huế mến, Huế yêu.