Cách trung tâm thành phố Huế 4km, chùa Thiên Mụ nằm ở cuối đường Kim Long, phường Hương Long, cạnh dòng sông Hương thơ mộng, như tô thêm nét duyên dáng cho khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của Huế.
"Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Thuyền về xuối mái sông Hương
Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay."
Nếu như Hà Nội có chùa Một Cột, Huế lại nổi tiếng với ngôi chùa Thiên Mụ. Cách trung tâm thành phố Huế chừng 4km, chùa nằm ở cuối đường Kim Long, thuộc phường Hương Long, cạnh dòng sông Hương thơ mộng, như tô thêm nét duyên dáng cho khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của Huế, mê hoặc du khách đến tham quan, vãn cảnh.
Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên-Huế hiện có 618 cơ sở thờ tự; trong đó 305 tu viện có Tăng Ni thường trú (3 ngôi quốc tự, 180 chùa Tăng, 125 chùa Ni), 313 đơn vị Niệm Phật đường, 6 chùa được công nhận di tích cấp quốc gia, số chư tăng gồm 643 vị và 524 vị ni.
Huế vốn là nơi có nhiều ngôi chùa cổ kính nổi tiếng của Việt Nam nhưng ngôi chùa xưa nhất phải kể đến là chùa Thiên Mụ - nơi có sự tích ra đời gắn liền với bước chân mở đường của vị chúa Nguyễn đầu tiên xứ Đàng Trong.
Chùa được xây dựng từ năm 1601, dưới thời chúa Nguyễn Hoàng. Sau đó chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Ngoài chuông lớn, chùa còn có thêm hàng chục công trình kiến trúc rất quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền...
Ông còn đích thân viết bài văn bia nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp, nay vẫn còn trong khuôn viên chùa.
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), sau đó được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ" (mừng sinh nhật thứ tám mươi) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua.
Khi du khách đến gần chùa, điều thu hút sự chú ý đầu tiên là tòa tháp hình bát giác bảy tầng mang tên Phước Duyên. Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 23m, gồm bảy tầng, được xây dựng ở phía trước chùa. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện.
Chùa Thiên Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ "Thiên Mụ chung thanh" do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa. Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (Bà mụ linh thiêng). Mãi đến năm 1869, vua mới cho dùng lại tên Thiên Mụ như trước. Bởi vậy trong dân gian vẫn dùng cả hai tên khi muốn nhắc đến chùa này.
Trong khuôn viên chùa hiện nay là một vườn hoa được chăm sóc, vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ôtô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời. Khung cảnh này càng tôn thêm vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng cho chùa Thiên Mụ./.