Mới đây, trong một cuộc trao đổi với người đứng đầu UBND tỉnh về khả năng huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, chúng tôi rất ấn tượng với thông tin: Thu hút đầu tư toàn xã hội của tỉnh đang chiếm tới 85%, trong khi huy động từ vốn ngân sách luôn giữ ở mức ổn định từ 5%-10%.
Như vậy là vốn xã hội hóa của tỉnh đang được huy động rất cao, điều mà nền kinh tế nào cũng mong muốn và kỳ vọng. Trong các nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển ở mỗi địa phương có thể kể một số nguồn lực chính gồm: vốn ngân sách (gồm ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương), vốn vay ODA, vốn đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong nước và vốn được huy động trong nhân dân. Theo phân tích, nếu địa phương nào lạm dụng vốn ngân sách để đầu tư thì coi như đã thất bại trong huy động nguồn lực, địa phương nào tích cực vận động và sử dụng nhiều từ nguồn vốn vay ODA cũng không được đánh giá cao vì thực tế vốn vay viện trợ thường đi kèm với những rủi ro, phiền hà mà báo chí thời gian gần đây đã phân tích rất nhiều. Còn đối với những địa phương có tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn xã hội hóa sẽ mang lại những lợi ích thiết thực, giảm gánh nặng cho ngân sách, không lo trả nợ, đồng thời tạo đà phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Với lợi thế là một tỉnh có tiềm năng về quỹ đất, nhất là đất đô thị nên thời gian qua lượng vốn huy động đầu tư xã hội hóa của Thái Nguyên là rất lớn. Chủ trương đối trừ cho nhà đầu tư khi họ tự bỏ tiền để xây dựng hạ tầng phục vụ dân sinh đã được tỉnh ta áp dụng khá hiệu quả theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ. Đây là hình thức đầu tư BT (xây dựng - chuyển giao) nhưng là BT bằng công trình chứ không phải bằng tiền - điều mà Chính phủ đang rất khuyến khích. Từ chủ trương này mà nhiều doanh nghiệp có uy tín trong và ngoài tỉnh đã đến đầu tư với các dự án quy mô lớn, chủ yếu ở các lĩnh vực như xây dựng hạ tầng khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, trung tâm thương mại... Đa số các dự án đều có số vốn hàng trăm tỷ đồng, trong đó có dự án lên tới cả nghìn tỷ đồng được nhà đầu tư bỏ kinh phí. Đổi lại, tỉnh sẽ bố trí để nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và đảm bảo lợi nhuận. Thời gian qua, các nhà đầu tư đã làm rất tốt chủ trương trên, giúp cho quá trình đầu tư phát triển của tỉnh được nhanh chóng hơn. Bộ mặt hạ tầng của tỉnh cũng vì thế mà được cải thiện, cộng đồng dân cư được sử dụng các dịch vụ dân sinh hiện đại, tiện ích và kịp thời. Điều đáng quan tâm là nhờ đó ngân sách địa phương bớt gánh nặng, có điều kiện tập trung đầu tư cho các chương trình cấp thiết, liên quan đến an sinh của toàn xã hội.
Thời gian qua, ngoài vốn của các nhà đầu tư trong nước, tỉnh ta đã tiếp nhận một lượng vốn khổng lồ từ các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong đó, đáng chú ý là vốn của Tập đoàn Samsung và các doanh nghiệp FDI làm phụ trợ khác với số lượng lên tới trên 7 tỷ USD. Thu hút được nguồn vốn đầu tư trên là công sức rất lớn của các cấp chính quyền trong tỉnh, điều mà nhiều địa phương mong mỏi nhưng không có được. Với sức đầu tư mạnh mẽ đó đã khiến toàn bộ cục diện kinh tế của tỉnh thay đổi, từ một địa phương có giá trị sản xuất công nghiệp chỉ khoảng 25 nghìn tỷ đồng/năm, nay tăng lên 300 nghìn tỷ đồng/năm; từ tỉnh có giá trị xuất khẩu không quá mấy trăm triệu USD/năm nay tăng lên hàng chục tỷ USD; từ chỗ chỉ giải quyết được khoảng 2 vạn lao động/năm nay tăng gấp nhiều lần... Điều đáng nói là từ các dự án vốn FDI này đã tạo môi trường đầu tư, môi trường sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy các dịch vụ công cộng ở địa phương phát triển.
Cùng với đó, việc huy động nguồn lực sẵn có trong nhân dân cho mục tiêu đầu tư phát triển của tỉnh thời gian qua cũng rất đáng kể. Chỉ tính riêng số lượng huy động đối ứng trong nhân dân thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh cũng cho thấy lượng tiền đóng góp của nhân dân lớn thế nào. Trong đó, phong trào vận động người dân hiến đất, tham gia đóng góp bằng tiền, bằng ngày công để làm đường, xây dựng các công trình phúc lợi đã được triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh...
Theo báo cáo của ngành Kế hoạch và Đầu tư thì tổng nhu cầu đầu tư phát triển riêng trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn 2011-2015 là trên 29.500 tỷ đồng, dự kiến giai đoạn 2016-2020 là gần 66 nghìn tỷ đồng. Trong đó, dự kiến đến năm 2020 nguồn vốn huy động trong nước sẽ chiếm khoảng 46% và sau năm 2020 khu vực kinh tế ngoài Nhà nước (xã hội hóa) sẽ đảm nhận vai trò chính trong đầu tư phát triển hạ tầng và đạt tỷ trọng 48% đến 50% tổng đầu tư hạ tầng vào năm 2030. Như vậy, vốn ngân sách tham gia là rất thấp, chủ yếu là vốn huy động ngoài xã hội. Ông Đặng Xuân Trường, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh: Trong giai đoạn 2011-2015, vốn ngân sách dành cho đầu tư hạ tầng của tỉnh chỉ chiếm khoảng 15%, còn lại và vốn huy động ngoài xã hội. Có nhiều công trình quy mô hàng trăm tỷ đồng nhưng không có một chút vốn nào của Nhà nước mà toàn bộ của nhà đầu tư. Trong 5 năm tới, dự kiến ngân sách của tỉnh dành cho đầu tư xây dựng cơ bản cũng chỉ chiếm từ 15% đến 20%.
Qua đây, chúng ta có thể thấy được rằng, sức ép phải sử dụng vốn ngân sách cho đầu tư phát triển không còn đè nặng lên vai của các nhà quản lý, điều tiết kinh tế địa phương. Trong bối cảnh ngân sách của tỉnh còn nhiều hạn chế, nhu cầu vốn đầu tư lại rất lớn thì những gì mà nguồn vốn ngoài ngân sách đóng góp cho sự phát triển chung của tỉnh là đáng ghi nhận.