“Tôi sinh ra và lớn lên ở làng nghề chè, do vậy đã sớm gắn bó với cây chè. Tiếp nối nghề của gia đình để lại, tôi tự nhủ phải không ngừng học hỏi để phát triển vùng chè quê mình, qua đó nâng cao đời sống người dân”. Đó là chia sẻ của chị Tống Thị Xuyến, Trưởng Làng nghề chè xóm Trung Thành 2, xã Vô Tranh (Phú Lương).
Nghề trồng, chế biến chè đã có mặt trên đất Trung Thành từ những năm 70 của thế kỷ trước khi những người dân ở Hà Nam, Thái Bình… lên đây xây dựng kinh tế mới. Trước đây, người dân sản xuất chè ồ ạt và làm theo cảm tính, kinh nghiệm là chính, máy móc làm chè cũng thô sơ nên sản phẩm làm ra thô mộc, giá trị thấp. Mặc dù chè là cây trồng chính của 90% người dân trong xóm, bà con vất vả làm lụng quanh năm nhưng thu nhập lại chẳng đáng là bao. Không ít người chán nản bỏ chè chuyển sang làm việc khác.
Trước thực trạng đó, chị Xuyến và một số người dân trong làng nghề đã tìm đến các vùng chè đặc sản nổi tiếng trong và ngoài tỉnh để học hỏi kinh nghiệm. Sau khi trở về, chị đã mạnh dạn chuyển đổi 100% diện tích chè trung du của gia đình (2.000m2) sang trồng thử nghiệm các giống chè cành có năng suất cao như: LDP1, TRI 777, Kim Tuyên…, cùng với đó là áp dụng kỹ thuật chăm sóc chè an toàn, thực hiện nghiêm các quy định về bón phân, đảm bảo thời gian cách ly hợp lý. Thấy vườn chè xanh tốt, mỡ màng, đều búp, nhiều người đã tìm đến chị Xuyến để học hỏi kỹ thuật. Dần dần, diện tích chè cành trong xóm đã chiếm trên 60% tổng diện tích chè kinh doanh (gần 20ha), nhưng quan trọng hơn là người dân đã dần thay đổi tập quán canh tác, chuyên tâm chăm sóc chè. Chị Xuyến tâm sự: Trồng chè an toàn không có nghĩa là không dùng phân bón, thuốc trừ sâu bệnh mà cần hiểu rằng nên dùng phân gì, thuốc bảo vệ thực vật ra sao, thời gian cách ly bao lâu để đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Để người dân tin tưởng làm theo tôi đã dùng việc sản xuất thực tế để chứng minh và bước đầu đã thành công.
Trên cơ sở đó, đầu năm 2016, chị Xuyến đã đứng ra kêu gọi hơn 30 người dân trong làng nghề để thành lập Tổ hợp tác chè VietGAP thực hiện sản xuất trên diện tích gần 12ha. Bên cạnh việc hướng dẫn, tuyên truyền người dân thực hiện nghiêm các quy định an toàn trong trồng, chế biến chè, chị Xuyến cùng các hộ thành viên còn thống nhất xây dựng quy chế hoạt động của Tổ. Trong đó, đáng chú ý là việc giám sát chéo giữa các hộ thành viên. Cụ thể, các thành viên tự kiểm tra, giám sát lẫn nhau, nếu hộ sản xuất vi phạm như: Phun thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục cho phép, lạm dụng phân hóa học, vứt rác thải bừa bãi trên nương chè… sẽ bị phạt từ 500 nghìn đến 1 triệu đồng để đưa vào quỹ hoạt động chung của Tổ. Qua đây, góp phần nâng cao ý thức của người sản xuất cũng như đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Khi đã có được sản phẩm chất lượng, chị Xuyến cùng với bà con đi khắp nơi để tiếp thị sản phẩm, mở rộng thị trường cũng như tích cực tham gia các lễ hội, hội chợ trong và ngoài tỉnh. Nhờ vậy, sản phẩm của Làng nghề đã được nhiều khách hàng xa gần biết đến và đạt được nhiều thành tích như: Búp chè Vàng tại Festival chè Thái Nguyên năm 2015, Chứng nhận thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam năm 2018… Đặc biệt, năm vừa qua, Làng nghề chè Trung Thành 2 đã vinh dự được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam vinh danh “Đơn vị kinh tế - Làng nghề tiêu biểu Việt Nam năm 2018”.
Ngoài làm Trưởng Làng nghề, Tổ trưởng tổ hợp tác, chị Tống Thị Xuyến còn là Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ, Chi hội Chữ thập đỏ xóm. Gắn bó với bà con trong các hoạt động đoàn thể, xã hội cũng như trong sản xuất, chị thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của từng người. Tại các đợt tiếp xúc cử tri hay các cuộc họp ở xã, huyện được tham gia, chị đã mạnh dạn đề xuất những mong muốn của người dân. Qua đó, nhiều hỗ trợ của tỉnh, huyện đã đến với Làng nghề chè xóm Trung Thành 2, như: Hỗ trợ xây dựng 700m đường bê tông vào làng nghề các năm 2016, 2017 từ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ 23 máy sao chè, 36 máy vò chè từ Đề án triển khai nhân rộng làng nghề điểm năm 2018; hỗ trợ xây hệ thống tưới nhỏ giọt, trang Web… Từ đây, người dân Làng nghề đã có thêm điều kiện để nâng cao, mở rộng sản xuất, năng suất trung bình đạt 11 tấn/ha/năm. Nếu như trước đây, giá chè bấp bênh, xuống thấp chỉ đạt 70-80 nghìn đồng/kg thì nay giá bán chè trung bình của Làng nghề đã đạt 200-250 nghìn đồng/kg.
Trao đổi với chúng tôi, ông Bùi Quang Huân, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề tỉnh, cho biết: Với vai trò là Trưởng Làng nghề chè xóm Trung Thành 2, chị Tống Thị Xuyến đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển làng nghề cũng như nâng cao giá trị sản phẩm chè. Chị Xuyến không chỉ tiên phong trong việc nâng cao giá trị sản phẩm làng nghề, phát triển sản phẩm mới, mà còn góp phần đoàn kết, khâu nối các thành viên trong làng nghề, đồng thời là đầu mối góp phần giúp làng nghề tiếp cận với các dự án, đề án được hỗ trợ.