Hoàn thiện cơ chế pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện quyền yêu cầu bồi thường

09:14, 14/10/2012

3 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường (TNBT) của Nhà nước đã tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật khi giải quyết yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện quyền yêu cầu và giải quyết bồi thường vẫn còn gặp không ít khó khăn, lúng túng...  

 

“Đùn đẩy” trách nhiệm bồi thường

 

 

Theo ông Nguyễn Duy Giảng - Phó Vụ trưởng Vụ 1, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Luật TNBT của Nhà nước chưa xác định rõ cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Ông Giảng dẫn chứng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người đang được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, cho bảo lĩnh, nhưng sau đó có quyết định, bản án sơ thẩm xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì theo quy định trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát. Tuy nhiên, theo ông Giảng, điều này là chưa phù hợp, trong trường hợp này cần phải xem xét trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Khoản 3, Điều 31, Luật TNBT của Nhà nước).

 

Thực tế, hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau về TNBT trong trường hợp sơ thẩm tuyên có tội, Tòa án cấp phúc thẩm hủy sơ thẩm để điều tra lại. Qua nhiều lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung và cuối cùng, cơ quan điều tra đình chỉ điều tra thì trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát hay Tòa án cũng chưa được làm rõ. Luật cũng chưa quy định các hình thức chế tài đối với các cơ quan có trách nhiệm bồi thường dẫn đến việc cố tình gây chậm trễ, làm phiền hà cho cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp được hưởng bồi thường thiệt hại.

 

Vì vậy, theo ông Nguyễn Duy Giảng, nên quy định việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường theo hướng mỗi cơ quan có quyền được bảo vệ quan điểm của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với từng vụ việc cụ thể. Theo đó, cần quy định cụ thể trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không có sự thống nhất về trách nhiệm thì sẽ có một cơ quan đứng ra quyết định trách nhiệm của từng cơ quan. “Như vậy, sẽ tránh được việc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.” – ông Giảng nói.

 

Bà Phùng Thị Hoàn, chuyên viên Viện Khoa học xét xử (TAND tối cao) cũng đề nghị, nên khẩn trương ban hành Thông tư liên tịch quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường liên ngành, sau đó xác định cụ thể trách nhiệm của từng ngành, để nâng cao trách nhiệm của các cán bộ, cơ quan nhà nước trong từng giai đoạn của hoạt động tố tụng, nhằm giảm bớt các vụ việc oan sai.

 

Khó khăn cho người thực hiện quyền yêu cầu bồi thường

 

Theo Cục trưởng Cục Bồi thường nhà nước (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thanh Tịnh, một trong những mục tiêu của Luật TNBT của Nhà nước là xác lập một cơ chế pháp lý thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, qua thực tế giải quyết yêu cầu bồi thường đã bộc lộ một số hạn chế, làm cho người bị thiệt hại gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Đó là, quy định của pháp luật về căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường chưa tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình.

 

Điều 4 Luật TNBT của Nhà nước quy định, người bị thiệt hại chỉ có quyền yêu cầu bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Như vậy, theo quy định này, mặc dù đã có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải thực hiện các thủ tục cần thiết để có được văn bản nêu trên làm căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Hơn thế, Luật còn đặt thêm thủ tục đối với người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường là phải có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.

 

Theo một đại diện của Sở Tư pháp Hà Nội, yêu cầu này là khó thực hiện vì người bị thiệt hại phải cần rất nhiều thời gian mới có thể thu thập hồ sơ, chứng cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, chưa kể việc thu thập chứng cứ lại không đúng theo quy định dẫn đến thời gian thực hiện giải quyết dài, người dân khi đến cơ quan nhà nước luôn ở thế bị động. Điều này cũng đã được minh chứng qua tình trạng các Bộ, ngành Trung ương và có đến 24 địa phương chưa phát sinh vụ việc yêu cầu bồi thường nhà nước trong 3 năm qua.

 

Liên quan đến vấn đề này, Cục trưởng Nguyễn Thanh Tịnh cho hay, thực tế không phải là không có các trường hợp thiệt hại thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBT của Nhà nước mà người bị thiệt hại chưa thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, do chưa biết đến quyền yêu cầu bồi thường nhà nước hoặc đã biết nhưng chưa thể thực hiện quyền yêu cầu bồi thường do phải chờ thủ tục xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Trong khi đó, quy định của pháp luật về thời hiệu yêu cầu bồi thường cũng được cho là đã gây ra vướng mắc cho người bị thiệt hại trong quá trình thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.

 

Bà Phùng Thị Hoàn, chuyên viên Viện Khoa học xét xử (TAND tối cao) nêu rõ, theo Luật, việc quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ ngày có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ đã gây bất lợi cho người bị thiệt hại. Bởi, trong nhiều trường hợp do người thiệt hại không nắm bắt được quy định đặc thù về thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước nên đã thực hiện quyền này trong thời hạn 2 năm kể từ ngày có thiệt hại xảy ra, nhưng họ lại chưa có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Nếu tiếp tục làm hoàn tất thủ tục, thì nhiều khi đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại. “ Theo tôi, Luật nên sửa đổi theo hướng thời hiệu là 2 năm từ ngày văn bản xác định hành vi trái pháp luật có của người thi hành công vụ có hiệu lực” - Bà Hoàn nói.

 

Ngoài ra, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường còn lúng túng trong hoạt động giải quyết bồi thường, chi trả tiền bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả do công chức được giao công tác này còn chưa nắm vững các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết hay một số quy định của Luật chưa phù hợp với thực tiễn… Đề cập đến nội dung này, ông Trương Huỳnh Thắng, Trưởng phòng Kiểm tra và Theo dõi thi hành Pháp luật tài chính (Bộ Tài chính) cũng cho rằng, việc giải quyết bồi thường gắn với việc xác định trách nhiệm của người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật thiệt hại chưa được quy định đầy đủ, cụ thể, nhất là việc xác định lỗi người vi phạm làm căn cứ xác định mức hoàn trả vào ngân sách nhà nước theo quy định.

 

Thực tế đã cho thấy, cần hoàn thiện một bước cơ chế bồi thường nhà nước trên cơ sở nghiên cứu phương án sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TNBT Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn. Cùng với việc xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật, cũng cần tăng cường công tác phổ biến và giải đáp vướng mắc pháp luật về bồi thường nhà nước; tổ chức tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước; củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách.

 

Theo số liệu tổng hợp của các bộ, ngành và địa phương, từ khi Luật TNBT của Nhà nước có hiệu lực (1/1/2010) đến ngày 30/9/2012, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý 168 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại (bao gồm 54 vụ việc trong lĩnh vực quản lý hành chính; 90 vụ việc trong hoạt động tố tụng và 24 vụ việc trong lĩnh vực thi hành án dân sự), trong đó đã giải quyết 122/168 vụ việc. Các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã chi trả hơn 16 tỷ đồng, trong đó bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính hơn 6 tỷ đồng, trong lĩnh vực tố tụng gần 8 tỷ đồng và trong lĩnh vực thi hành án dân sự gần 2 tỷ đồng.