Việt Nam không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước chống tra tấn

15:59, 23/10/2014

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, sáng 23/10, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Trần Văn Hằng trình bày Báo cáo thẩm tra về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước chống tra tấn) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1984, có hiệu lực thi hành ngày 26/6/1987 và hiện có 155 quốc gia thành viên, 10 quốc gia đã ký nhưng chưa phê chuẩn Công ước, trong đó có Việt Nam. Ngày 18/9/2014, Chủ tịch nước đã có Tờ trình số 03/TTr-CTN đề nghị Quốc hội phê chuẩn Công ước theo quy định tại Điều 70 khoản 14 Hiến pháp năm 2013. Ngày 25/9/2014, Chính phủ đã có Báo cáo số 344/BC-CP báo cáo Quốc hội về việc phê chuẩn Công ước.

 

Để chuẩn bị trình Quốc hội phê chuẩn Công ước, ngày 2/10/2014, tại phiên họp lần thứ 31, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc phê chuẩn Công ước. Ngày 21/10/2014, Ủy ban đối ngoại đã tiến hành phiên họp toàn thể Ủy ban để thẩm tra việc phê chuẩn Công ước theo quy định tại Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.

 

Theo Báo cáo thẩm tra, Ủy ban Đối ngoại nhất trí về sự cần thiết phê chuẩn Công ước Chống tra tấn vào thời điểm hiện nay. Điều này phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người cơ bản ở Việt Nam.

 

Báo cáo thẩm tra khẳng định việc phê chuẩn Công ước là cơ sở pháp lý quan trọng không những đối với công tác bảo vệ và thực thi quyền con người tại Việt Nam mà còn góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam.

 

Với việc trở thành thành viên đầy đủ của Công ước chống tra tấn, Việt Nam có thêm điều kiện tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, tạo cơ sở cho việc tăng cường đối thoại về nhân quyền với các nước, các tổ chức quốc tế và tham gia hiệu quả hơn vào các thiết chế bảo vệ nhân quyền của Liên hợp quốc. Đồng thời, việc phê chuẩn Công ước chống tra tấn càng có ý nghĩa khi Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, thể hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam trong việc ghi nhận và đảm bảo thực thi các quy định và chuẩn mực của Liên hợp quốc về nhân quyền.

 

Tuy vậy, Công ước có một số nội dung chưa được quy định trong văn bản pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Cụ thể, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về tội danh tra tấn như tại Điều 1 Công ước; chưa có quy định về từ chối dẫn độ đối với người có nguy cơ bị tra tấn, chưa quy định cụ thể việc bồi thường tổn thất cho nạn nhân bị tra tấn... Các nội dung này đã được Chính phủ giao Bộ Công an nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung vào Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và Bộ luật Tố tụng Hình sự (sửa đổi).

 

Về tội danh tra tấn theo quy định tại Điều 1 Công ước: Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa có quy định tội danh riêng về tra tấn nhưng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có các quy định liên quan đến hành vi tra tấn cả về thể chất và tinh thần tại nhiều điều khoản như quy định về tội bức cung; tội dùng nhục hình; tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, tội hành hạ người khác; tội làm nhục người khác;  hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; tội làm nhục, hành hung đồng đội; tội ngược đãi tù binh, hàng binh...

 

“Khái niệm “tra tấn” theo quy định của Công ước là cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở cho việc xác định tội danh tra tấn phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Do vậy, với việc gia nhập Công ước chống tra tấn, chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội danh liên quan đến tra tấn trong Bộ luật Hình sự phù hợp với định nghĩa "tra tấn" quy định tại Công ước và các quy định trong tố tụng hình sự về bồi thường những tổn thất về tinh thần của nạn nhân bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người” – Báo cáo thẩm tra nêu rõ.

 

Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cho phép áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện (khoản 3 Điều 6). Đối với Công ước chống tra tấn, xét lợi ích cũng như yêu cầu đảm bảo an ninh trật tự trong tình hình hiện nay và xu hướng chung của các nước khi tham gia Công ước, Ủy ban Đối ngoại nhất trí với đề xuất của Chính phủ không áp dụng trực tiếp quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam, bảo lưu quy định tại Điều 20 của Công ước liên quan đến thẩm quyền của Ủy ban chống tra tấn và khoản 1 Điều 30 về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng Công ước.

 

Ủy ban Đối ngoại cũng nhất trí với tuyên bố: Việt Nam không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước chống tra tấn; việc thực hiện các quy định của Công ước chống tra tấn sẽ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở các thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương với nước khác và nguyên tắc có đi có lại. Việt Nam không coi Công ước chống tra tấn là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ là quan điểm nhất quán của Việt Nam khi tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hình sự.

 

Đối với các nội dung của Công ước chưa được quy định trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, Ủy ban Đối ngoại nhất trí với kiến nghị cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung một số quy định trong văn bản pháp luật trong nước nhằm nội luật hóa các nội dung của Công ước.

 

Cụ thể, cần nghiên cứu, bổ sung tội danh tra tấn để phù hợp với định nghĩa tra tấn trong đó có hành vi tra tấn về tinh thần của Công ước; sửa đổi, bổ sung quy định về tội dùng nhục hình, tội bức cung và một số hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người có thể bị coi là tra tấn...

 

Cùng với đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về dẫn độ đối với tội phạm tra tấn trong Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tương trợ tư pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 Công ước Chống tra tấn; đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật Tạm giữ, tạm giam và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Tạm giữ, tạm giam; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án hình sự./.