Có nên truy cứu trách nhiệm hình sự luật sư do không tố giác thân chủ về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là một trong những chủ đề nóng tại phiên thảo luận cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV vào Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, ngày 24/5.
Khoản 3, Điều 19 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015, quy định người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự do không tố giác khách hàng về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.
Đại biểu Nguyễn Chiến (Hà Nội) đề nghị, loại bỏ chủ thể luật sư ra khỏi quy định tại Điều 19 của dự thảo Luật.
Theo đó, ĐB Nguyễn Chiến nêu ra hàng loạt các lý lẽ: Thứ nhất, luật sư bào chữa theo chế định đặc thù do Hiến pháp và Luật luật sư quy định khác với bào chữa viên là người khác không chịu sự điều chỉnh của Luật luật sư và quy tắc đạo đức luật sư Việt Nam. Không thể đánh đồng luật sư với chủ thể là bố, mẹ, anh, chị, em người phạm tội như dự thảo.
Thứ hai, đưa chủ thể luật sư vào xử lý hình sự không có sự khảo sát đánh giá tác động tính nguy hại cho xã hội, cần điều chỉnh bằng chế tài hình sự hành vi này có mức độ nguy hại thế nào, có coi là tội phạm và phải bị trừng trị bằng biện pháp hình sự hay không và trong quá trình thực thi Bộ luật Hình sự thì luật sư đã có những vi phạm phải xử lý như thế nào?
Thứ ba, quy định này đẩy luật sư không những vi phạm điều cấm đối với luật sư của Bộ luật tố tụng hình sự, vi phạm Luật luật sư mà còn vi phạm quy tắc đạo đức nghề luật sư, như cấm luật sư tiết lộ bí mật của thân chủ không làm xấu đi tình trạng của khách hàng do mình bào chữa.
Thứ tư, quy định này là vi hiến và xung đột với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể, Điều 73 quy định người bào chữa không được tiết lộ thông tin về vụ án về người bị buộc tội mà mình bào chữa, nhưng Điều 19, dự thảo sửa đổi Bộ luật Hình sự lại quy định người bào chữa phải tố giác tội phạm người do chính mình bào chữa trong khi thực hiện việc bào chữa.
Thứ năm, việc quy định như trên còn làm đảo lộn giá trị nghề luật sư trong xã hội vì bản chất nghề luật sư là bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
ĐB Nguyễn Chiến cũng băn khoăn, nếu không thực hiện Điều 19 Bộ luật Hình sự thì luật sư có thể phạm tội hình sự. Nếu thực hiện Điều 19, tố giác thân chủ, luật sư có thể bị thân chủ tố ngược là vu khống, trớ trêu thay quy định này còn đẩy luật sư từ chỗ đang thực thi nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ theo đúng quy định của pháp luật, bỗng dưng lại trở thành người bị tình nghi phạm tội, nhảy sang vị trí cùng với thân chủ khi bị xác minh xem xét trách nhiệm hình sự do không tố giác tội phạm.
Đồng tình và chia sẻ với ĐB Nguyễn Chiến, ĐB Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hoà) đề nghị Ban soạn thảo giải trình thêm trong trường hợp luật sư biết được các tội phạm đó, thân chủ thực hiện các tội phạm đã thực hiện rồi thì trên cơ sở lí luận và thực tiễn nào Ban soạn thảo lại đưa ra phải chịu trách nhiệm về hình sự, có tham khảo kinh nghiệm quốc tế hay không?.
Đồng tình những tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, song ĐB Đỗ Ngọc Thịnh chỉ ra các tội này quá rộng, tới 84 tội thì không có luật sư nào có thể biết hết được và rất dễ dẫn đến việc "tai nạn nghề nghiệp" của luật sư, không chỉ ảnh hưởng tới các luật sư tham gia bào chữa mà nó ảnh hưởng tới cả đội ngũ luật sư và nghề luật sư. Trên cơ sở đó, đề nghị khoanh lại trong khoảng 27 tội.
ĐB Trương Trọng Nghĩa (TP Hồ Chí Minh) bày tỏ băn khoăn nếu luật sư tố giác thân chủ thì có thể vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội?.
ĐB Trương Trọng Nghĩa phân tích: Theo nguyên tắc này, một người coi là có tội chỉ khi bản án có hiệu lực của Tòa án, còn việc chứng minh tội phạm là việc của cơ quan điều tra và công tố. Tố giác không có bằng chứng hay dựa vào lời khai nào đó của họ thì anh lại vi phạm nghĩa vụ công dân của nghề nghiệp. Luật sư tố giác thân chủ có thể vi phạm quyền con người của bị can, bị cáo. Bởi theo Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự, bị can bị cáo không buộc phải khai báo những điều bất lợi và không buộc phải nhận tội trong khi luật sư thì lại tố giác họ. Luật sư đi tố giác thân chủ là trái với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp, trái với thiên chức của luật sư là gỡ tội.
“Quy định này có thể ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam trong quá trình hội nhập bởi doanh nhân hay công nhân nước ngoài có thể nói với nhau hãy cảnh giác khi sử dụng luật sư Việt Nam vì họ có nghĩa vụ tố giác thân chủ, vì nếu không chính họ sẽ bị khởi tố hình sự”, ĐB trương Trọng Nghĩa lưu ý.
Tranh luận lại ý kiến của 3 ĐB Nguyễn Chiến, Đỗ Ngọc Thịnh, Trương Trọng Nghĩa, ĐB Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) đề nghị, cần xem xét lại suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước ta, từ thời kỳ phong kiến đến nay, đối với tội trước đây thời kỳ phong kiến trong các bộ luật của nhà nước phong kiến đều nói tội "bất trung", tội "đại nghịch" luôn luôn được xem là tội nặng nhất cần trừng trị. Hiện nay, trong bộ luật của chúng ta gọi là các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Vì vậy, đối với những tội này, không thể lấy bất kỳ lí do nào, kể cả lí do về hoạt động nghề nghiệp để cho rằng phải bảo vệ việc này.
“Nếu như bao che cho những tội phạm này thì liệu có còn quốc gia nữa hay không để chúng ta yên tâm phát triển nghề nghiệp dù đấy là bất kỳ nghề nghiệp nào, không nói đấy là nghề bào chữa?”, ĐB Nguyễn ThịThủy đặt vấn đề.
Trong khi đó, theo ĐB Nguyễn Thị Thủy, nếu như theo Bộ luật Hình sự 1999, người bào chữa sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm đối với 317 tội. Thế nhưng với việc thu hẹp phạm vi của Bộ luật Hình sự 2015, người bào chữa chỉ còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 83 tội mà không phải như là 317 tội như trước đây.
Nhấn mạnh trên tinh thần thượng tôn pháp luật người bào chữa cũng là người bảo vệ pháp luật, ĐB Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng nếu quy định được miễn trừ trách nhiệm hình sự sẽ dẫn đến người bào chữa sử dụng kiến thức pháp luật của mình để che giấu, biết rõ thân chủ của mình có tội nhưng vẫn giúp cho thân chủ mình thoát tội khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Điều đó sẽ không đúng với nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, không công bằng với mọi công dân. Vì Điều 5, Luật luật sư quy định nguyên tắc hành nghề luật sư là phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.../.