Tục thờ ông bà vùng châu thổ phương Nam

07:58, 06/10/2014

Tục thờ cúng tổ tiên từ ngàn đời nay đã trở thành một tập quán tốt đẹp của người Việt. Sự sáng tạo của dân ta được thể hiện qua hình thức thờ cúng kết hợp giữa đạo Phật và tục thờ tổ tiên có từ khi Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam.

Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua việc đặt bàn thờ “hiền Phật hậu Linh”, “thượng Phật hạ Linh” tức là bàn thờ gia tiên cũng được đặt trước, phía dưới hoặc kế bên bàn thờ Phật. Việc cúng lạy hàng ngày: vừa lễ Phật, vừa lễ gia tiên… Những ngày lễ của đạo Phật, bàn thờ gia tiên vẫn được trang hoàng, và ngược lại, những ngày lễ của dòng tộc, bàn thờ Phật khói hương vẫn nghi ngút.

 

Trong phạm vi bài viết này, xin trình bày về tục thờ cúng tổ tiên của đồng bào miền Nam, và cũng xin phép gọi là “tục thờ cúng ông bà” (thay vì “tục thờ cúng gia tiên”) theo như cách gọi dân dã và gần gũi của người miền Nam.

 

Từ khi bước chân đầu tiên vào khai phá vùng Cửu Long giang, những lưu dân đã mang theo cả một kho tàng luân lý, đạo đức vốn đã được kết tinh từ nhiều đời trên đất nước Đại Việt xưa. Đó cũng là cả một nền văn hóa có sự kết hợp giữa Tam giáo: Phật - Lão - Nho và hơn hết vẫn là truyền thống “Hiếu nghĩa vi tiên” mà cả ba tôn giáo trên đều khuyên con người phải chu toàn. Theo quan niệm phương Đông “dương gian âm cảnh đồng nhứt lý” (cõi nhân gian và cõi âm cùng nhau về lý lẽ) mà đồng bào miền Nam đã khái quát một cách ngắn gọn, dễ hiểu: “sự mất cũng như sự tồn” cũng đủ cho thấy sự tôn kính ông bà có vai trò to lớn như thế nào trong tâm thức cộng đồng người Việt nói chung và đồng bào miền Nam nói riêng. Nguyễn Đình Chiểu viết:

 

“Thà đui mà giữ đạo nhà

Còn hơn có mắt ông cha không thờ” 

 

Bàn thờ ông bà đơn giản ở các gia đình Nam Bộ. 

 

“Ðạo nhà” ở đây là đạo thờ kính ông bà tổ tiên, nó không đơn thuần là một thứ tôn giáo mà là một tập tục tín ngưỡng, một loại hình sinh hoạt tâm linh phi giáo điều, giáo lý, cũng không có sự ràng buộc về hình thức, trái lại tùy vào từng gia đình, từng địa phương có cách thể hiện lòng kính ngưỡng của mình đối với ông bà cũng khác nhau. Song, xét cho cùng, đây vẫn là một thuần phong mỹ tục đầy trang trọng, nghiêm túc mà bất cứ một con người Việt Nam nào cũng không thể xem thường.

 

Cuối thế kỷ XIX, tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời ở vùng phía Tây Nam Đồng bằng Sông Cửu Long đã nêu ra “Tứ Ân” được xem như tôn chỉ của đạo, gồm: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhân loại. Trong đó, ân tổ tiên được đưa lên hàng đầu cũng đủ minh chứng được tầm quan trọng của việc thờ kính ông bà trong giáo lý của tôn giáo nội sinh ở vùng đất này. Đức Bổn Sư (Ngô Lợi - người khai mối đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) cũng đã gọi tôn giáo mình là “đạo ông bà” - một cách gọi giản dị mà đầy ý nghĩa.

 

Bàn thờ Cửu huyền thất tổ ở Đình Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang). 

 

Về việc thờ cúng ông bà của người miền Nam, hàng năm, cứ đến ngày mất của ông bà thì cả gia đình lại tổ chức lễ giỗ, xem như hình thức kỉ niệm và tri ân của con cháu với ông bà đã quá vãng. Sau đó là cầu xin ông bà phù hộ cho con cháu, và cuối cùng là bữa tiệc ấm cúng của gia đình. Đây là dịp để dòng họ tề tựu kể cho nhau nghe chuyện mùa màng, công việc, ngoài ra cũng có sự có mặt của láng giềng, chòm xóm. Đám giỗ ở miền Nam nhất thiết phải có bốn món cơ bản là hầm, luộc, xào, kho. Hầm ở đây là canh thịt hầm, có thể là khổ qua, hoặc măng, nhất là măng tre Mạnh Tông ý nhắc đến tích hiếu thảo của Mạnh Tông; món luộc vào món xào có nhiều cách chế biến, có khi là thịt luộc trọn gỏi, cuốn bánh tráng, xào đậu đũa, cải…; nhưng riêng món kho thì luôn luôn phải là thịt kho rệu (hay còn gọi thịt kho tàu) - món ăn đặc trưng của vùng đất này. Ngoài ra, khi trong gia đình, dòng họ có việc gì hệ trọng, gặp sự cố hay có người đau ốm… con cháu thường cầu xin ông bà để được phù hộ.

 

 Bàn thờ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa luôn là một tấm trần màu đỏ.

  

Ngày Tết được xem là ngày quan trọng nhất trong năm, theo tục lệ cổ truyền thì vào ngày 30 nhân dân rước ông bà về ăn Tết với gia đình mình. Các gia đình trang hoàng nhà cửa, mua sắm, chuẩn bị thức ăn, đồ cúng từ rất sớm. Những ngày đầu tiên của năm mới cũng là lúc con cháu tề tựu, quây quần bên ông bà, làm lễ cúng gia tiên. Dầu nhà nghèo cũng phải cố gắng nấu bữa cơm để dâng cúng vào mùng một Tết, đơn giản nhưng thành kính.

 

Ở miền Nam thường không có Từ đường hoặc nhà họ, nhà Tổ… nên địa điểm mà gia đình chọn để sum vầy chính là nhà của ông bà nội hoặc ông bà ngoại, người đã có công gầy dựng và duy trì, phát huy gia đình. Đôi khi là nhà của người huynh trưởng trong trường hợp ông bà cha mẹ đã quá vãng. Có thể nói, Tết là ngày mà con cháu dẫu làm ăn xa cách mấy cũng phải trở về, trước thắp nén nhang trước bàn thờ ông bà, sau là thăm hỏi nhau sau một năm tất bật làm ăn. Ngày nay, do điều kiện kinh tế và sự phát triển của xã hội hiện đại, lắm khi con cháu đánh mất phong tục tốt đẹp này.

  

Dù cho có bất cứ tôn giáo, triết lý nào cao siêu đến đâu cũng không thể làm cho người ta bỏ quên tổ tiên được.

  

Chính vì thế, truyền thống gia đình nói chung và phong tục thờ kính ông bà nói riêng là một nét đẹp - nét đẹp mang đậm giá trị tinh thần mà không tốn kém nhiều về vật chất, là con người Việt Nam cần hiểu đúng và gìn giữ đúng giá trị tư tưởng cao đẹp hàng ngàn năm này.