Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa năm 1995 đã và đang tiếp tục phát triển, mở rộng và đi vào chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân hai nước.
Chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 10-7 và cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Nhà Trắng ngày 7-7 được dư luận nhìn nhận là “cột mốc lịch sử” và là “nấc thang cao hơn” trong khuôn khổ Quan hệ Đối tác Toàn diện được thiết lập giữa hai nước từ năm 2013.
Kể từ khi bình thường hóa, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển từng bước vững chắc với các chuyến thăm lẫn nhau thường xuyên hơn giữa các nhà lãnh đạo cấp cao. Kể từ năm 1995 đến nay, giữa hai nước đã có 5 chuyến thăm cấp cao, gồm Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và George W.Bush thăm Việt Nam năm 2000 và 2006; Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm chính thức Hoa Kỳ trong các năm 2005, 2007, 2008 và 2013.
Quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ được xác lập từ tháng 7-2013 trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tạo ra các cơ chế hợp tác sâu rộng hơn giữa hai nước trên 9 lĩnh vực ưu tiên, gồm: Chính trị - ngoại giao; kinh tế - thương mại; khoa học - công nghệ; giáo dục - đào tạo; môi trường và sức khỏe; giải quyết hậu quả chiến tranh; quốc phòng - an ninh; bảo vệ và thúc đẩy quyền con người; văn hóa, thể thao và du lịch. Năm 2015 kỷ niệm 20 năm bình thường hóa được cả hai bên nhìn nhận là năm có ý nghĩa quan trọng, đặt nền tảng cho những bước phát triển thực chất và sâu rộng hơn trong tương lai. Chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và chuyến thăm Việt Nam có thể có của Tổng thống Obama trong năm 2015 là sự tiếp nối logic của mối quan hệ ngày càng mở rộng này.
Hợp tác kinh tế - thương mại là điểm sáng nhất trong quan hệ giữa hai nước. Hoa Kỳ trong nhiều năm qua giữ vị trí là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm 2014 đạt khoảng 36 tỷ USD (năm 1994 chỉ đạt 94,9 triệu USD), trong đó Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ 28 tỷ USD. Năm ngoái, Hoa Kỳ cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 vào Việt Nam với khoảng 700 dự án (tổng vốn đầu tư gần 10,7 tỷ USD). Hai nước đang cùng 10 đối tác khác đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), mở ra cơ hội lớn cho cả hai. Khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, số lượng du khách Hoa Kỳ vào Việt Nam đứng thứ 5, nhưng từ năm 2001 đã đứng thứ 2. Riêng năm 2014 đã có khoảng 443.000 lượt du khách Hoa Kỳ thăm Việt Nam (tăng 16% so với năm 2013). Từ năm 2010, Tổng thống Obama đã chọn Việt Nam là 1 trong 10 thị trường hàng đầu để thực hiện chủ trương tăng gấp đôi xuất khẩu của Hoa Kỳ trong giai đoạn 2010-2015.
Hợp tác về giáo dục và đại học cũng là một điểm nổi bật trong bức tranh chung của quan hệ giữa hai nước. Theo số liệu công bố ngày 17-12-2014 của Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE), trong niên khóa 2013-2014, số sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học và cao đẳng của Hoa Kỳ là 16.579 người, đứng thứ 8 trong số những nước có đông sinh viên ở Mỹ và đứng đầu trong các nước khu vực Đông Nam Á (trong đó có hơn 70% số sinh viên Việt Nam theo học cấp đại học ở Hoa Kỳ và 17% theo học cấp sau đại học). Cùng với đó, hợp tác về y tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được xác lập từ rất sớm, được triển khai dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ. Việt Nam là nước duy nhất ở châu Á cùng với 14 nước châu Phi từ tháng 6-2004 được chọn là quốc gia thí điểm nhận viện trợ từ Chương trình cứu trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ về phòng chống HIV/AIDS (PEPFAR). Hai nước đã ký Hiệp định hợp tác về y tế và khoa học y học, mở đường cho sự hợp tác sâu rộng hơn trong lĩnh vực y tế nhằm đáp ứng với những thách thức và mục tiêu y tế trên toàn cầu trong thế kỷ XXI. Về việc hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh vừa là một ưu tiên vừa là một cầu nối đầu tiên đưa quan hệ giữa hai nước tiến tới bình thường hóa. Trong 20 năm qua, các tổ chức phi chính phủ (NGO) của Hoa Kỳ đã dành 80 triệu USD để hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả bom mìn. Tháng 8-2012, Hoa Kỳ lần đầu tiên trực tiếp tham gia chiến dịch tẩy rửa chất độc da cam tại Đà Nẵng với chi phí 43 triệu USD. Về tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực khoa học - công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được hai bên xác định là rất lớn. Kể từ năm 2000 khi hai nước ký Hiệp định về hợp tác khoa học - công nghệ, mối quan hệ trong lĩnh vực này phát triển khá nhanh. Về quan hệ trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được xác lập ngay từ khi bình thường hóa năm 1995…
Cùng với việc phát triển quan hệ song phương, Việt Nam và Hoa Kỳ cũng đã hợp tác ngày càng hiệu quả tại các diễn đàn đa phương, như diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) và Liên hợp quốc. Hoa Kỳ xác định Việt Nam là một trụ cột trong hợp tác của Hoa Kỳ với ASEAN, coi ASEAN và Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chính sách tái cân bằng, duy trì an ninh, hòa bình, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á nói riêng và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung…
Với sự phát triển liên tục và sâu rộng trong quan hệ song phương 20 năm qua, đến nay giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập được 10 kênh đối thoại với mục đích xây dựng lòng tin cũng như xử lý các thách thức và những vấn đề còn khác biệt, trong đó có các kênh đối thoại quan trọng như Đối thoại về chính sách quốc phòng, Đối thoại chính trị - an ninh - quốc phòng, Đối thoại châu Á - Thái Bình Dương và Đối thoại về nhân quyền.
Nam Hà (Tổng hợp)