Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những tác động đến mọi mặt, từ đời sống, kinh tế - xã hội đến môi trường và hệ sinh thái, trong đó có vấn đề an ninh nguồn nước. Việt Nam được coi là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Do đó, việc đảm bảo an ninh nguồn nước càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Đây là nội dung chính Hội thảo quốc tế về an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Hội thảo do Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, Mạng lưới hợp tác về Nước (Cộng hòa Liên bang Đức), Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), tổ chức ngày 19/4 tại Hà Nội.
Hội thảo nhằm tăng cường nhận thức chung về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu với môi trường, đặc biệt là về an ninh nguồn nước, đồng thời tạo điều kiện cho các đơn vị chuyên môn, các nhà khoa học trong nước và quốc tế trao đổi kiến thức chuyên ngành về công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm trong phòng tránh thảm họa môi trường bằng các giải pháp thực tiễn.
* Đối mặt với những thách thức lớn
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Việt Thanh nhận định, biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ làm cho các thách thức về nguồn nước trở nên phức tạp và khó lường. Nước sông, nước ngầm đã và đang suy giảm đáng kể, mực nước biển có xu hướng dâng cao, triều cường và xâm nhập mặn ngày càng gia tăng. Trong khi đó, cùng với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng như sự gia tăng dân số, nhu cầu về nước cho sản xuất, đời sống đang tăng nhanh.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) , Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn về an ninh nguồn nước. Quá trình công nghiệp hóa, khai thác năng lượng dòng chảy và mở rộng diện tích tưới tiêu nông nghiệp của những nước thượng nguồn đang gây khó khăn cho Việt Nam.
Nhu cầu nước cho sản xuất và tiêu dùng tăng nhanh, năm 1990 khoảng 50 tỷ m3 khối/năm, năm 2000 khoảng 65 tỷ m3 khối/năm, năm 2010 khoảng 72 tỷ m3 khối/năm; dự báo nhu cầu nước năm 2020 là 80 tỷ m3 khối/năm. Lượng mưa hàng năm khá cao nhưng phân bổ không đồng đều theo không gian và thời gian. Nơi mưa nhiều như vùng Bạch Mã (Thừa Thiên Huế) lên đến 8.000 mm/năm, trong khi đó Phan Rang (Ninh Thuận), Phan Rí (Bình Thuận) lượng mưa chỉ từ 400-700mm/năm. Tổng lượng dòng chảy bề mặt thay đổi rõ giữa các mùa trong năm, chiếm 75-85% trong mùa mưa, phần còn lại chia cho các tháng mùa khô. Sự hình thành các đập thủy điện ở thượng nguồn làm trầm trọng thêm tình trạng mất cân đối nguồn nước.
Hiện tượng suy thoái đất diễn ra nhanh dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, trong đó tình trạng sa mạc hóa ở các tỉnh Nam Trung bộ và sụt lún làm ngập lụt vùng đồng bằng sông Cửu Long ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội nếu không có hành động kịp thời. Nhiều dòng sông bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng nước ngày càng xấu đi do chất thải hữu cơ và vô cơ, dư lượng thuốc hóa nông, rừng bị chặt phá trái phép, làm thủy điện...làm hạn chế việc điều tiết nguồn nước.
Dự báo, đồng bằng sông Cửu Long có 828.000 ha đất bị nhiễm mặn, vùng Trung du và miền núi Bắc bộ có gần 2,3 triệu ha bị suy thoái, có nguy cơ trượt lở. Vùng duyên hải Nam Trung bộ có gần 56.000 ha đất bị nhiễm mặn, 759.000 ha bị hoang hoá, sa mạc hóa.
Thiên tai và biến đổi khí hậu đang đe dọa cán cân nguồn nước. Bão lũ gây thiệt hại lớn nhất về người và tài sản, làm sạt đất, lở núi, sói bờ và xâm thực ven biển. Xu thế thiếu nước như dòng chảy kiệt, nắng nóng kéo dài và mưa giảm gây khô hạn đang đe dọa các vùng trong cả nước.
* Cần có những giải pháp khả thi
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) lưu ý, Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới muốn tránh nguy cơ về an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu cần quan tâm giải quyết 4 vấn đề: hệ quả xã hội, kinh tế và môi trường khi lấy nước từ thiên nhiên; quan hệ giữa sử dụng đất và nguồn nước; hệ lụy khi chuyển đổi nguồn nước và sử dụng đất; những vấn đề xã hội khi có sự khủng hoảng nguồn nước.
Tiến sỹ Dirk Pauschert, Giám đốc Chương trình GIZ tại Việt Nam cho biết: GIZ có những dự án đã và đang triển khai tại các đô thị ở Việt Nam để nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như bảo vệ nguồn nước. Tiêu biểu như các chương trình chống ngập úng được triển khai từ năm 2012-2016 tại 5 đô thị duyên hải quy mô vừa (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Quảng Ngãi, Sóc Trăng, Cà Mau); các chương trình quản lý nước thải được thực hiện bằng cách hỗ trợ bảo vệ nước, nguồn gốc của sự sống tránh nguy cơ ô nhiễm từ hộ gia đình và các ngành công nghiệp tại Việt Nam triển khai và thực hiện từ năm 2005 thông qua 4 giai đoạn (hiện đang ở giai đoạn 4) tại 9 tỉnh: Bắc Ninh, Hải Dương, Nghệ An, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Hòa Bình, Lạng Sơn và Sơn La.
Đề cập đến những giải pháp cụ thể đối với an ninh nguồn nước, Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Hòa, Phó Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam cho rằng, cần có sự hợp tác chặt chẽ và thiện chí giữa các quốc gia để cùng bảo vệ, chia sẻ, khai thác công bằng, hiệu quả nguồn tài nguyên nước. Đồng thời, cần có hệ thống chính sách, pháp luật, chiến lược về tài nguyên nước hoàn chỉnh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm tài nguyên nước và phòng chống có hiệu quả các tác hại của nước do nhân tai gây ra. Bên cạnh đó, phải thay đổi nhận thức và hành động ở mỗi địa phương, mỗi ngành, đoàn thể, cá nhân trong bảo đảm an ninh nguồn nước. Các nhà quản lý, nhà khoa học phải đưa ra nhiều thông tin, giải pháp hữu ích liên quan đến việc bảo đảm an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu rõ rệt như hiện nay. "Chúng ta cần gửi đi và thực hiện tốt thông điệp: Bảo vệ, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nước phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững là trách nhiệm của từng cá nhân và của toàn xã hội", Tiến sỹ Trần Đình Hòa nhấn mạnh./.