Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-1975 là chiến dịch cuối cùng trong 21 năm (1954-1975) kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 nói riêng. Với thắng lợi của chiến dịch này, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước đi lên CNXH.
Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ảnh tư liệu Bảo tàng Binh đoàn Quyết thắng. |
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là nghệ thuật chủ động tạo thời cơ, chớp thời cơ, tấn công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, giành thắng lợi trọn vẹn, kết thúc cuộc kháng chiến.
Sau khi quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ rút hết khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris đã tạo ra thời cơ mới để quân và dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam. Từ giữa năm 1973 và nhất là năm 1974, Quân giải phóng miền Nam tiếp tục giành nhiều thắng lợi trên khắp các địa bàn miền Nam, trong đó có chiến thắng Thượng Đức (tháng 8-1974). Ngay sau chiến thắng này, tháng 10 và 12-1974, tập thể Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí cán bộ chủ chốt của chiến trường 2 lần họp Hội nghị bàn kế hoạch giải phóng miền Nam. Đánh giá về tình hình cách mạng miền Nam, Hội nghị khẳng định: “chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn…”. Hội nghị thống nhất quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm (1975-1976) và thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam. Mặt khác, Hội nghị dự kiến nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Đây là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc tiến công chiến lược, kết thúc chiến tranh.
Bộ Tư lệnh chủ lực Miền tiến công giải phóng cứ điểm Bộ Chỉ huy Cảnh sát ngụy ở Phước Long. (ảnh tư liệu) |
Giữa lúc Hội nghị đang tiếp tục họp thì ngày 6/1/1975, tỉnh Phước Long được giải phóng. Chiến thắng Phước Long mở ra cơ hội mới, Hội nghị nhắc lại dự kiến nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Theo kế hoạch, ngày 4/3/1975, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên, nhanh chóng giải phóng Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên, tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, nguy cơ bị suy sụp và tan rã về chiến lược. Chiến thắng này mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Tiếp đó, ngày 25/3/1975, ngay trước ngày giải phóng thành phố Huế, Bộ Chính trị quyết định hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975. Ngày 31/3/1975, sau khi Đà Nẵng được giải phóng, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975.
Quân đoàn 2 giải phóng Đà Nẵng ngày 29/3/1975. (ảnh tư liệu) |
Ngay trước khi Đà Nẵng được giải phóng, ngày 29/3/1975, Hội nghị lần thứ 15 Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết đặc biệt nêu rõ thời cơ chiến lược giành toàn thắng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam đã đến. Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa long trời lở đất đã bắt đầu. Chúng ta phải nhanh chóng, táo bạo phát triển tiến công dồn dập giành thắng lợi hoàn toàn với những nỗ lực phi thường “một ngày bằng hai mươi năm”.
Ngày 1/4/1975, căn cứ vào sự phát triển tiến công dồn dập như vũ bão trên các chiến trường, Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, trước mùa mưa. Để tập trung, thống nhất cao độ sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với chiến trường trọng điểm mang tính quyết định cuối cùng, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ mặt trận Sài Gòn, khẳng định quan điểm tấn công giải phóng miền Nam với nỗ lực phi thường “một ngày bằng hai mươi năm” của Trung ương Cục miền Nam.
Đến ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Để tập trung cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta đã huy động lực lượng lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gồm 4 quân đoàn và 1 đơn vị tương đương quân đoàn, hoàn toàn áp đảo quân đối phương.
Trước khi chiến dịch giải phóng Sài Gòn diễn ra, ngày 7/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi điện chỉ đạo mặt trận với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”
Lữ đoàn tăng 203 cùng Sư đoàn bộ binh 304, Quân đoàn 2 đánh địch trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn, tiến vào giải phóng Thành phố Sài Gòn. (ảnh tư liệu) |
Thực hiện kế hoạch đề ra, ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, với khí thế "thần tốc, táo bạo", các cánh quân của ta đồng loạt tấn công vào Sài Gòn, nơi tập trung toàn bộ cơ quan đầu não của Chính phủ và Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Trước cuộc tổng tấn công như vũ bão vào Sài Gòn của các cánh quân, ngày 29/4/1975, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn, nhận được tin này, Bộ Chính trị điện chỉ đạo Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh: “tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng”. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, các cánh quân của ta tiếp tục tiến vào giải phóng Sài Gòn, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện, miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Nhân dân vui mừng đón chào chiến thắng. (ảnh tư liệu) |
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với kết thúc là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là đỉnh cao về nghệ thuật quân sự của Đảng, quân đội và nhân dân Việt Nam. Trong đó, quyết tâm chiến lược thể hiện tầm tư duy chiến lược sắc bén của Đảng; việc tổ chức thực hiện với những chiến dịch quân sự, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam của quân và dân ta là yếu tố quyết định.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin