Xét tuyển thẳng - một chính sách nhân văn sâu sắc

07:15, 02/08/2013

Kỳ thi, tuyển sinh năm 2013, ngoài số học sinh các huyện nghèo, học sinh dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo Tây Nam Bộ,  Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD và ÐT) tiếp tục mở rộng thêm đối tượng học sinh xét tuyển thẳng thuộc 20 huyện vùng khó khăn, biên giới Tây Nguyên, giáp Tây Nguyên...

Ðây là chủ trương lớn mang tính nhân văn sâu sắc cho nên các trường đại học, cao đẳng (ÐH, CÐ) đều nghiêm túc triển khai. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải học sinh nào cũng theo học được bậc ÐH, CÐ cho nên vẫn còn nhiều trường băn khoăn khi thực hiện chủ trương này.

 

Thu hẹp khoảng cách tiếp cận giáo dục vùng miền

 

Ðể đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở những huyện nghèo, huyện đặc biệt khó khăn về kinh tế, Chính phủ ban hành Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo. Nghị quyết yêu cầu các bộ, ngành có nhiệm vụ triển khai thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra. Trong đó, đào tạo và phát triển nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Mặt khác, hiện nay ở nước ta, vẫn còn một số huyện vùng biên giới, hải đảo gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế trong tiếp cận giáo dục. Hỗ trợ phát triển đào tạo nhân lực nhằm bảo đảm kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng cho các huyện thuộc vùng này là một trong những nhiệm vụ quan trọng được các Ban chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Bộ GD và ÐT quan tâm. Vì vậy, kể từ kỳ thi tuyển sinh năm 2012, Bộ GD và ÐT đã thực hiện chính sách ưu tiên xét tuyển thẳng đối với học sinh các huyện nghèo, dân tộc thiểu số, huyện nghèo biên giới hải đảo khu vực Tây Nam Bộ. Năm 2013, Bộ GD và ÐT tiếp tục bổ sung ưu tiên xét tuyển thêm học sinh bảy huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao theo quy định của Chính phủ và 13 huyện biên giới thuộc các tỉnh Tây Nguyên và giáp Tây Nguyên.

 

Thực tế cho thấy ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, nhất là các địa phương thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, nếu không có chính sách tuyển sinh đặc thù thì rất khó đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bộ GD và ÐT cũng đã quy định rõ các điều kiện xét tuyển thẳng là: thí sinh phải học một năm bồi dưỡng kiến thức, để đạt đến mặt bằng đủ để theo học trường, ngành học đăng ký; căn cứ vào kết quả học tập của năm học bổ sung kiến thức, nhà trường sẽ tiếp nhận chính thức vào học ÐH và sắp xếp bố trí ngành học.

 

Như vậy, thời gian học của những thí sinh thuộc diện chính sách này không chỉ là bốn năm mà ít nhất là năm năm. Các trường có trách nhiệm tổ chức đào tạo thêm một năm để bổ sung kiến thức. Nhiều trường gặp không ít khó khăn đã chọn giải pháp liên kết với các trường nội trú, trường dự bị dân tộc, trường THPT để tổ chức lớp học hoặc gửi thí sinh đến học. Chính sách ưu tiên xét tuyển thẳng thực hiện từ năm 2012 và theo thống kê cả nước mới chỉ có gần năm nghìn em nhập học. Cho đến nay chưa hết một năm để có thể khẳng định có bao nhiêu học sinh đạt yêu cầu để được chính thức vào ÐH, CÐ.

 

Chính sách ưu tiên tuyển sinh cũng thay đổi chứ không phải "bất di, bất dịch". Hằng năm, Bộ GD và ÐT đã có thống kê, phân tích đánh giá, tiếp thu ý kiến để rà soát, điều chỉnh những chính sách ưu tiên trong phạm vi, quyền hạn của mình để có những chính sách phù hợp đồng hành với những chính sách ưu tiên đã được quy định rõ trong các văn bản của Chính phủ, các nghị định mà Bộ GD và ÐT phải thực hiện và cập nhật thường xuyên mỗi khi các quy định này có sự thay đổi. Những chính sách ưu tiên được Bộ GD và ÐT cân nhắc điều chỉnh hằng năm tùy thuộc yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của các vùng miền trong từng thời kỳ nhất định, đồng thời sẽ kiến nghị lên Chính phủ xem xét điều chỉnh hợp lý các chính sách ưu tiên nhằm bảo đảm công bằng trong tuyển sinh.

 

                                                                                                 PGS, TS BÙI ANH TUẤN

                                                                                   Vụ trưởng Giáo dục đại học - Bộ GD và ÐT

 

"Phân luồng" trong xét tuyển thẳng

 

Xét tuyển học sinh các huyện nghèo, học sinh dân tộc thiểu số, địa bàn biên giới một số vùng là chủ trương được xã hội hoan nghênh. Tuy nhiên, băn khoăn là vấn đề quy hoạch nhu cầu ngành nghề phát triển cho địa phương. Sinh viên diện ưu tiên này ra trường sẽ về địa phương phục vụ hay để "tự bơi" rồi dẫn đến hao tốn tiền của mà mục tiêu vẫn không đạt được? Ðiều đáng lo ngại nhất là các em liệu có theo học được không, có chịu được áp lực học "bậc cao" với các chương trình đào tạo tiên tiến, với những kiến thức cập nhật theo sự biến đổi của khoa học công nghệ? Hay các em sẽ được "chiếu cố" để rồi khi ra trường không thể đáp ứng được nhu cầu xã hội? Chính điều đó khiến một số thầy giáo, cô giáo cho rằng: Ðào tạo nghề bậc cao không phải là nơi thực hiện chính sách ưu tiên.

 

Là người làm giáo dục cũng khá nhiều năm, tôi thấy sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, để đổi mới thì không thể kêu khó, không thể vin vào lý do tiền lệ chưa có, không theo thói quen được. Ai đã một lần đến thăm (thăm thôi chứ chưa đến ở hẳn hoặc nhận công tác) những ngôi trường nghèo xơ xác nơi vùng núi cheo leo mà không khỏi se lòng! Với các em sinh ra và lớn lên ở các huyện nghèo, khó khăn, biên giới, chính sách ưu tiên tuyển thẳng là cơ hội quan trọng để trở thành sinh viên, tạo nguồn nhân lực chủ chốt của các địa phương trong tương lai. Ðã có nhiều bác sĩ, giáo viên, cán bộ giỏi là con em người dân tộc thiểu số, trở thành những tấm gương sáng. Trong điều kiện gian khổ, khó khăn mà các em sẽ sớm có nghị lực, vượt khó, biết tận dụng cơ hội (mà nhiều bạn trẻ ở thành phố mong muốn vẫn chưa thể có được) để chăm chỉ học tốt, rèn luyện tốt.

 

Theo tôi, ngành GD và ÐT đã dành ưu ái cho các huyện nghèo để các em được đến các trường ÐH, CÐ là chính sách có tính nhân văn sâu sắc. Cuộc thi tuyển sinh "ba chung" đầy cam go, nếu không có chính sách ưu tiên này thì sẽ khó khăn vô cùng với các em đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ "bỏ trắng" những vùng khó khăn. Tuy nhiên, Bộ GD và ÐT cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn ngành nào cần ưu tiên, số lượng một năm khoảng bao nhiêu học sinh để tránh quá tải, lãng phí. Có những trường ÐH tập trung bồi dưỡng nhân tài, có trường lại chỉ lo nâng cao dân trí hoặc phát triển nhân lực địa phương, vì vậy, cần có quy hoạch cụ thể để các em thuộc các huyện nghèo, vùng khó khăn... được "phân luồng" hợp lý và khoa học.

 

Dù còn một số điều cần bàn, nhưng chính sách ưu tiên cho thế hệ trẻ Việt Nam vùng khó khăn, biên giới là cần thiết. Trách nhiệm của các hiệu trưởng, của đội ngũ các giảng viên, các thầy giáo, cô giáo sẽ vô cùng quan trọng. Trong số những học sinh được xét tuyển thẳng chắc chắn sẽ  có những em trở thành tấm gương sáng trong học tập nếu việc triển khai đào tạo phù hợp, bài bản, đúng đối tượng.

 

                                                                                                      PGS, TS NGUYỄN VĂN NHÃ

                                                                                               Hiệu trưởng Trường ÐH Nguyễn Trãi

 

Chung quanh vấn đề tuyển thẳng đại học ở Ðại học Thái Nguyên

 

Tại các đơn vị đào tạo thuộc Ðại học Thái Nguyên (ÐHTN) các nhà giáo đều đồng thuận với chính sách tuyển thẳng theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ.

 

Việc Bộ GD và ÐT cho thực thi chính sách tuyển thẳng trong tuyển sinh ÐH, CÐ cho vùng cao, miền núi, hải đảo... là chủ trương ưu việt, mang tính nhân văn, được xã hội đồng tình. GS, TS Trần Ngọc Ngoạn (ÐHTN) cho rằng:  Chính sách tuyển thẳng phù hợp với đồng bào miền núi, biên giới, bởi người dân ở đây quá thiệt thòi, đặc biệt là khó khăn về điều kiện học tập, nâng cao dân trí. Ðối với đồng bào năng lực nhận thức là cửa ải hạn chế mọi thứ. Các em khó khăn lắm mới tốt nghiệp được THPT. Theo Phó trưởng Ban đào tạo (ÐHTN) Ðỗ Như Tiến cho biết: Hiện ÐHTN có 883 em diện tuyển thẳng đang theo học dự bị đại học tại mười đơn vị đào tạo thành viên. Trường đại học Nông lâm có số lượng sinh viên đông nhất 459 em, tiếp theo là Trường đại học Sư phạm 232 em. Tỷ lệ sinh viên người dân tộc thiểu số chiếm hơn 90%. Các em sau một năm học bổ sung kiến thức, về chất lượng học tập, vẫn cần phải cố gắng hơn. Năm 2013, cùng với 62 huyện nghèo, Bộ GD và ÐT bổ sung 20 huyện nghèo được ưu tiên xét tuyển thẳng học sinh vào ÐH, CÐ khiến lượng hồ sơ tuyển thẳng vào ÐHTN tăng mạnh so với năm 2012. Ðến ngày 27-7-2013, đã có hơn ba nghìn hồ sơ đăng ký, khiến nhà trường phải thành lập tổ công tác chuyên nhập dữ liệu hồ sơ thí sinh.

 

Mặc dù chính sách tuyển thẳng mang tính nhân văn nhưng tại ÐHTN, một số cán bộ giảng dạy, sinh viên, người nhà sinh viên vẫn băn khoăn. Một số  thầy giáo, cô giáo cho rằng, các sinh viên thi tuyển, khi vào học ÐH, CÐ vẫn chật vật, cho nên với học lực của các thí sinh tuyển thẳng, chất lượng đào tạo sẽ khó bảo đảm. Trong thực tế, sinh viên tuyển thẳng chủ yếu là sinh viên nghèo, vài tháng đầu học bổ sung kiến thức thì khoản tiền gia đình chu cấp còn đều đặn. Nhưng có nhiều trường hợp, sau đó gia đình hết khả năng chu cấp thì các em bỏ học dần, chưa kể khi ra trường các em lại phải "tự bơi", không biết có tìm được việc làm hay không. Một người nhà sinh viên thật thà chia sẻ: "Khi tôi đưa cháu xuống trường, mới rõ, học đại học theo chế độ tuyển thẳng phải tự lo học phí, tự tìm việc làm, thế là hai bố con quay về luôn, bởi gia đình không thể có điều kiện cho cháu ăn học".

 

Trưởng ban Công tác học sinh, sinh viên (ÐHTN) Nguyễn Tất Thắng cho biết: Chương trình bổ sung kiến thức cho sinh viên tuyển thẳng của ÐHTN rất cụ thể, không nặng lắm, nhưng tiếp thu của các em quá khiêm tốn, nếu không muốn nói là đuối, do kiến thức bị "hổng". Một số cán bộ Trường đại học Sư phạm Thái Nguyên đề xuất: Bộ GD và ÐT không nên giao cho các đơn vị đào tạo tự ra điều kiện như hiện nay. Thực tế nhiều học sinh ở các huyện nghèo không thể đáp ứng điều kiện của các trường. Các địa phương cần làm tốt khâu quy hoạch khảo sát, ngành nghề nào đang cần nhân lực thì khuyến khích các em theo học.

 

Theo Phó Trưởng phòng công tác học sinh sinh viên (Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên) TS Ðỗ Quốc Tuấn thì: Lúc đầu vào trường có tổng số 623 sinh viên, quá trình học cứ "rơi rụng" dần, nay còn 459 em. Lý do bỏ học vì nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do học lực của các em không theo học được vì kiến thức đại học quá nhiều và khó. Tiếp theo là lý do gia đình nghèo và chuyển trường. Sau một năm học bổ sung kiến thức văn hóa tại trường năng lực học tập của tám lớp dự bị có phần hơi "đuối". Kết quả học tập, chỉ có 5%  xếp loại khá, còn lại xếp loại trung bình, 10% xếp loại yếu, phải học bổ sung.

 

Trao đổi ý kiến với sinh viên diện tuyển thẳng Ðoàn Mai Phương, quê ở xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà (Lào Cai), Khoa Cơ bản, Phương cho biết: Em cảm ơn chính sách của Nhà nước đã tạo điều kiện cho em được học đại học. Lớp em có rất nhiều sinh viên nghèo, cho nên em mong các cấp chính quyền có sự hỗ trợ hơn nữa về vật chất đối với sinh viên người dân tộc thiểu số, để các bạn không phải bỏ học giữa chừng. Em biết các bạn luôn mơ ước được đi học đại học, sau này trở thành kỹ sư trồng trọt, chăn nuôi để về hướng dẫn lại cho đồng bào mình phát triển kinh tế, xóa đói nghèo.

 

                                                                                                                               PHƯƠNG CƯỜNG

 

* Ưu tiên xét tuyển thẳng vào ÐH, CÐ đối với học sinh có hộ khẩu thường trú từ ba năm trở lên, học ba năm và tốt nghiệp trung học phổ thông tại các huyện nghèo theo quy định tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 293/QÐ-TTg ngày 05-02-2013 của Thủ tướng Chính phủ; thí sinh là người dân tộc thiểu số theo quy định tại Quyết định số 2123/QÐ-TTg ngày 22-11-2010 và thí sinh 20 huyện nghèo biên giới, hải đảo thuộc khu vực Tây Nam Bộ. Những thí sinh này phải học bổ sung kiến thức một năm học trước khi vào học chính thức. Chương trình bổ sung kiến thức do hiệu trưởng các trường quy định.

                                                                                   (Nguồn: Thông tư 03/2013/TT-Bộ GD và ÐT)

 

* Bổ sung các huyện có học sinh được ưu tiên xét tuyển thẳng vào ÐH, CÐ hệ chính quy: Học sinh thuộc bảy huyện tại Quyết định số 615/QÐ-TTg ngày 25-4-2011; Học sinh thuộc 13 huyện biên giới thuộc các tỉnh Tây Nguyên và giáp Tây Nguyên.

 

                                       (Nguồn: Công văn 4007/Bộ GD và ÐT-Giáo dục ÐH ngày 14-6-2013).