Một số sự kiện lịch sử về tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào năm 1968

09:20, 21/08/2012

Đồng chí Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh: Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.

 

Từ ngày 1 tháng 1 đến 28 tháng 2 năm 1968

 

Từ ngày 1 tháng 1 đến 28 tháng 2 năm 1968, quân dân Phôngxalỳ (Lào) phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam vây địch ở Á Pô, Tông Xơ. Qua hơn một tháng, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Phôngxalỳ buộc địch phải rút khỏi Á Pô, Tông Xơ, Phu Lốp; loại khỏi vòng chiến đấu 146 tên địch.

 

Từ ngày 4 đến 5 tháng 1 năm 1968

 

Từ ngày 4 đến 5 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt Nam) họp ở K7, nghe đồng chí Nguyễn Đôn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, báo cáo về tình hình Lào. Hội nghị thảo luận về vấn đề tăng cường quân số và giúp Lào trên các mặt trận chính trị, quân sự ngoại giao; thống nhất quan điểm tích cực giúp Lào thực hiện đường lối và chủ trương đã đề ra. Hội nghị đề cập việc giúp Lào đào tạo đặc công...; giao Quân khu 4 giúp Lào ở Nam Lào. Ban Công tác Lào nắm tình hình chung toàn Lào, giúp Trung ương chỉ đạo thực hiện kế hoạch giúp Lào.

 

Ngày 12 tháng 1 năm 1968

 

Ngày 12 tháng 1 năm 1968, Trung đoàn Không quân 919 Việt Nam sử dụng một biên đội AN2 gồm bốn chiếc xuất kích từ sân bay Gia Lâm, theo đường bay Gia Lâm - Hoà Bình - Mương Hàm - Mương U. Biên đội bay đến Phả Thí vào lúc quân địch đang nghỉ trưa, có nhiều sơ hở và sương mù đã tan, dễ quan sát các mục tiêu. Bốn máy bay AN2 lần lượt lao xuống, bắn 128 quả rốckét và 48 đạn cối 120mm, địch không kịp phản ứng. Toàn bộ hệ thống rađa, đài chỉ huy, kho, sân bay trực thăng đều bị đánh trúng...

 

Ngày 16 tháng 1 năm 1968

 

Nhân dịp Tết cổ truyền của Việt Nam, ngày 16 tháng 1 năm 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào gửi thư chúc Tết đến chuyên gia và bộ đội tình nguyện Việt Nam công tác và chiến đấu ở Lào. Bức thư viết: “Đảng và nhân dân Lào chúng tôi chân thành biết ơn tinh thần hy sinh cao cả của các đồng chí. Các đồng chí đã đóng góp vào thắng lợi to lớn của cách mạng Lào. Nhân dịp năm mới, chúc các đồng chí mạnh khoẻ, thu được nhiều thắng lợi mới”.

 

Ngày 20 tháng 1 năm 1968

 

Ngày 20 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt Nam) ra nghị quyết về tổ chức Đoàn chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, nêu rõ: thành lập Đoàn chuyên gia quân sự toàn Lào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. Đoàn chuyên gia quân sự có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo các chuyên gia quân sự về mọi mặt, đồng thời giúp Quân ủy Trung ương nghiên cứu chủ trương, phương hướng công tác giúp Lào về quân sự.

 

Quân tình nguyện ở Bắc Lào do Quân khu Tây Bắc xây dựng, chỉ huy, lãnh đạo về mọi mặt. Quân tình nguyện ở Nam Lào do Phân đoàn chuyên gia quân sự kiêm Ban Chỉ huy quân tình nguyện chỉ huy. Ban Chỉ huy quân tình nguyện Nam Lào trực thuộc Quân khu 4 (Việt Nam) về mọi mặt. Khi cần thiết, Bộ sẽ chỉ huy tác chiến đối với quân tình nguyện ở Bắc và Nam Lào...

 

Ngày 29 tháng 1 năm 1968

 

Ngày 29 tháng 1 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam cùng Quân giải phóng nhân dân Lào phối hợp với quân trung lập Lào tiến công giải phóng Na Xịa. Đây là trận đánh đầu tiên của quân trung lập có sự phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam. Sự kiện trên đánh dấu sự tiến bộ trong mối quan hệ giữa lực lượng trung lập với Neo Lào Hắc Xạt và trình độ sử dụng lực lượng tác chiến tập trung, quy mô trung đoàn tăng cường của lực lượng cách mạng Lào, khẳng định quan điểm đại đoàn kết của Đảng Nhân dân Lào và Neo Lào Hắc Xạt trong việc huy động mọi tầng lớp nhân dân cho mục tiêu chống Mỹ, giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Lào thống nhất, thịnh vượng.

 

Ngày 12/1 đến 27/2 năm 1968

 

Sau những thất bại trong hai năm 1966-1967 ở chiến trường Bắc Lào, đế quốc Mỹ huy động sáu tiểu đoàn chủ lực nguỵ Viêng Chăn dưới sự chỉ huy và chi viện trực tiếp của Mỹ, mở cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng Nặm Bạc. Sau khi chiếm được Nặm Bạc, chúng liên tục mở các cuộc nống lấn, mở rộng địa bàn kiểm soát, nhằm tạo bàn đạp nối liền với Luổng Phạbang, uy hiếp hậu phương Tây Bắc Việt Nam. Đến tháng 12 năm 1967, lực lượng địch ở Nặm Bạc có 3 binh đoàn cơ động (11, 12, 13) và một tiểu đoàn của Binh đoàn cơ động 15, một tiểu đoàn pháo binh. Lực lượng địch đóng quân ở ba khu (Na Khằng, Huội Ngát và trung tâm thung lũng Nặm Bạc). Ngoài ra, còn có các khu phỉ ở Chòm Văn, Giang Tơi, Moốc Phúc, Ta Mao. Các cụm quân đều có phỉ ở vòng ngoài nhằm đối phó với ta từ xa.

 

Sau một thời gian chuẩn bị, quân tình nguyện Việt Nam cùng Quân giải phóng nhân dân Lào mở chiến dịch tiến công địch ở Nặm Bạc (từ ngày 12 tháng 1 đến 27 tháng 2 năm 1968). Kết quả là, liên quân Lào - Việt đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.200 tên địch, trong đó bắt sống hơn 2.000 tên, thu và phá huỷ 34 khẩu ĐKZ, 47 súng cối, 2 khẩu sơn pháo 75, 20 xe ôtô, bắn rơi 14 máy bay, giải phóng hoàn toàn Nặm Bạc.

 

Thắng lợi của chiến dịch Nặm Bạc đánh dấu bước trưởng thành của liên quân Lào - Việt, góp phần khôi phục, củng cố vùng giải phóng, nối liền Sầm Nưa với Xiêng Khoảng và vùng giải phóng Bắc Lào, mở ra vùng giải phóng rộng lớn ở Thượng Lào. Đây là chiến thắng quan trọng, đánh bại một phương thức tác chiến trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào, làm thay đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho cách mạng Lào.

 

Ngày 2 tháng 2 năm 1968

 

Mương Ngan là một khu vực đông dân, là vựa lúa và cơ sở cách mạng của huyện Mương Khun, tỉnh Xiêng Khoảng (Lào). Địa hình nổi lên ba điểm cao gồm Phu Hom Cheng, Phu Then Chao và Phu Tong Noong, tạo thành thế chân kiềng. Tại đây, Vàng Pao bố trí năm SGU, tổ chức thí điểm các đơn vị biệt kích.

 

Phát huy thắng lợi, ngày 2 tháng 2 năm 1968, Quân khu Cánh đồng Chum (Lào) và Đoàn 463 (Việt Nam) mở chiến dịch Mương Ngan, tiêu diệt một bộ phận sinh lực phỉ Vàng Pao, giải phóng nhân dân ở Mương Ngan, tạo điều kiện cho lực lượng trong vùng địch hậu Viêng Chăn hoạt động. Lực lượng tham gia gồm ba tiểu đoàn bộ binh (2, 24 và 701). Ngày 2 tháng 2, liên quân nổ súng tiến công. Sau một thời gian chiến đấu, liên quân phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Mương Ngan. Địch tháo chạy, liên quân truy kích về phía nam và tiếp tục đánh chiếm Thà Thôm, Phu Mừn, Mương Mày, Bolịkhăn. Chiến thắng Mương Ngan đã tạo điều kiện chi viện cho Đông Viêng Chăn.

 

Ngày 3 tháng 3 năm 1968

 

Sau khi nghiên cứu tình hình Nam Lào, ngày 3 tháng 3 năm 1968, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Đôn chỉ thị cho Ban Chỉ huy bộ đội tình nguyện Nam Lào và Bộ Tư lệnh Quân khu 4 về nhiệm vụ trước mắt và tiếp theo của các lực lượng tình nguyện Việt Nam ở Nam Lào:

 

Khu vực Xalavăn: hoạt động như hiện tại, không đánh vào thị xã mà kéo địch ra để diệt; tích cực xây dựng cơ sở quần chúng, phát động chiến tranh du kích mạnh mẽ, tạo thành vành đai cô lập Xalavăn; giải quyết các vị trí lẻ, quét sạch bọn dân vệ, giải phóng và làm chủ vùng nông thôn xung quanh Xalavăn, đồng thời giữ bằng được hành lang Lao Ngam; tiếp tục chuẩn bị chiến trường.

 

Khu vực Lao Ngam: để một bộ phận bộ binh bám sát, bao vây bắn tỉa, phục kích, chặn đánh quân địch nống ra... tích cực nghi binh làm như chuẩn bị đánh lớn. Phần lớn lực lượng còn lại giải quyết các vị trí lẻ, quét dân vệ dọc sông Xê Coong, đoạn từ Noỏng Xy đến Khôngxêđôn và Bắc Xuvannakhili, giải phóng và làm chủ vùng nông thôn.

 

Khu vực Áttapư: hoạt động như hiện tại, tìm mọi cách kéo địch ra ngoài để đánh..., có kế hoạch che giấu lực lượng.

 

Ngày 10 tháng 3 năm 1968

 

Ngày 10 tháng 3 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Sầm Nưa tiến công giải phóng Phả Thí lần thứ hai. Ngày 10 tháng 3, liên quân Lào - Việt nổ súng tiến công cụm phỉ ở Phả Thí, Huội Mạ, Huội Mừn. Bốn giờ ngày 10 tháng 3, lực lượng đặc công dùng bộc phá đồng loạt đánh vào trạm rađa, sở chỉ huy của địch. Các chiến sĩ đặc công chia thành hai mũi đánh theo phương châm phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân địch vừa chống cự, vừa rút về phía thang dây nhưng bị hoả lực của bộ binh chặn đánh; nhiều tên liều mạng tụt xuống thang, có tên rơi xuống vực. Bộ binh tiến lên phối hợp với đặc công truy quét địch. Chín giờ sáng, khi sương mù trên đỉnh Phả Thí vừa tan hết, một bộ phận của Đoàn 766 tiến lên đến đỉnh núi. Mỹ dùng máy bay ném bom phá huỷ trạm rađa. Đến 10 giờ ngày 11 tháng 3, liên quân Lào - Việt làm chủ hoàn toàn căn cứ Phả Thí, loại khỏi vòng chiến đấu 872 tên, trong đó có viên thiếu tá, chỉ huy trưởng và 18 sĩ quan nhân viên kỹ thuật Mỹ, làm tan rã ba đại đội (3AC), bắn rơi 10 máy bay, thu 300 súng, giải phóng 10 xã với hơn một vạn dân...

 

Chiến thắng Phả Thí đã củng cố vững chắc vùng giải phóng Sầm Nưa, phá tan đài rađa dẫn đường cho máy bay Mỹ. Chiến thắng đánh dấu sự trưởng thành trong liên minh đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, góp phần đánh bại một bước chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ vùng giải phóng Lào.

 

Ngày 20 tháng 3 năm 1968

 

Để mở rộng địa bàn và ngăn chặn những hoạt động phá hoại của phỉ, Bộ Chỉ huy tối cao Lào chủ trương mở cuộc tiến công cứ điểm Huội Hỉn Xa, mở thông đường lên Nặm Bạc. Ngày 20 tháng 3 năm 1968, Đoàn 766 quân tình nguyện Việt Nam được giao nhiệm vụ phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào tiêu diệt cứ điểm này.

 

Sau khi nghiên cứu tình hình địch, Đoàn 766 hạ quyết tâm đánh cứ điểm Huội Hỉn Xa. Lực lượng gồm Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 293, đại đội hoả lực mang vác của Đoàn 766. Về phía Lào, có một đại đội bộ binh tham gia. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như đường hành quân xa, rừng núi rậm, nhưng Đoàn 766 vẫn đến địa điểm tập kết đúng thời gian. Để bảo đảm tính bất ngờ, Đoàn 766 quyết định nổ súng tiến công Huội Hỉn Xa sớm hơn kế hoạch. Ngay từ đầu, pháo của liên quân đã bắn trúng các mục tiêu khiến quân địch không kịp đối phó, chúng hoảng hốt tháo chạy. Liên quân nhanh chóng truy kích. Chỉ trong ba giờ chiến đấu, Đoàn 766 cùng cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân Lào đã đánh tan một tiểu đoàn địch, bắt sống 30 tên, thu toàn bộ vũ khí của chúng...

 

Ngày 10 tháng 8 năm 1968

 

Ban Công tác miền Tây báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về tình hình Lào mùa khô 1967-1968

 

Ngày 10 tháng 8 năm 1968, Ban Công tác miền Tây báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về tình hình Lào mùa khô 1967-1968. Báo cáo đánh giá những thắng lợi trong mùa khô 1967-1968 là to lớn, có ý nghĩa chiến lược. Quân địch bị thất bại nặng nề, nhất là sau chiến dịch Nặm Bạc. Thắng lợi của cách mạng Lào đã làm cho tương quan lực lượng chuyển sang thế có lợi cho cách mạng...

 

Thắng lợi trên là do Đảng Nhân dân Lào đề ra đường lối và chủ trương đúng đắn. Nghị quyết 13 và 15 dần dần thấm vào cán bộ các cấp; nhân dân đã nhận rõ địch, ta, thấy được mục tiêu phấn đấu, tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng, trên cơ sở đó nâng cao quyết tâm chiến đấu, hăng hái công tác...

 

Nhiệm vụ mùa khô 1968-1969 là: cần tập trung sức giành một số thắng lợi quyết định trên chiến trường, đồng thời củng cố lực lượng cách mạng về mọi mặt. Chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng chuyển giai đoạn trong tình hình có lợi...

 

Về sự giúp đỡ của Việt Nam: Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã giúp Trung ương Đảng Nhân dân Lào hoạch định đường lối và thực tế đã chứng minh đường lối đó hoàn toàn đúng đắn, cách mạng Lào có chuyển biến rõ rệt, làm cho Lào tin tưởng, phấn khởi. Chuyên gia có tư tưởng vững vàng, phương pháp tốt. Quan hệ Việt Nam - Lào tiếp tục được củng cố...

 

Ngày 16 tháng 8 năm 1968

 

Ngày 16 tháng 8 năm 1968, Quân ủy Trung ương nhận định về công tác xây dựng ngành cơ yếu và phương hướng giúp Lào trong thời gian tới, nêu rõ: mấy năm qua, ngành cơ yếu đã có nhiều cố gắng đáp ứng cơ bản yêu cầu của cách mạng Lào. Trong quá trình đó nổi lên mấy vấn đề sau: quán triệt quan điểm đấu tranh giai cấp, xác định đây là công tác tối mật, trọng yếu của Đảng, không những trước mắt mà cả sau này. Từ đó, quán triệt quan điểm, đường lối cán bộ, qua rèn luyện thử thách để xây dựng ngành. Xây dựng trình độ mật, trình độ kỹ thuật, bảo đảm sự chỉ đạo của Đảng. Bước đầu giúp Lào quy định một số chế độ công tác, nguyên tắc và nội dung làm việc...

 

Phương hướng trong thời gian tới: giúp Lào phát huy tính độc lập tự chủ, tiến tới tự lực hoàn toàn, bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ có quan điểm giai cấp. Giúp Lào xây dựng hệ thống tổ chức, lực lượng, phương tiện, nắm vững kỹ thuật, từng bước nâng cao năng lực công tác, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ.

 

Ngày 9 tháng 9 năm 1968

 

Ngày 9 tháng 9 năm 1968, Ban lãnh đạo Mặt trận 565 báo cáo Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam về thực hiện kế hoạch mùa khô 1967-1968 và phương hướng nhiệm vụ mùa mưa 1968 ở Nam Lào. Báo cáo tổng hợp tình hình ở Nam Lào trong mùa khô 1967-1968: Việt Nam và Lào đã phối hợp loại khỏi vòng chiến đấu 3.860 tên địch, thu 797 súng các loại, 3 tấn đạn, hơn 4 tấn quân trang, quân dụng, phá 8 pháo, 30 xe quân sự, bắn rơi 11 máy bay, giải phóng 47 xã với 104.500 dân. Việt Nam và Lào củng cố cơ sở địch vận từ khu đến tỉnh, huyện, xã. Hệ thống cơ quan này do cấp ủy đảng của mỗi cấp lãnh đạo, chỉ đạo, đã in và phát hành truyền đơn, thư kêu gọi binh lính địch ra hàng, trở về với gia đình. Đảng ủy Mặt trận đánh giá, thành tích trên đã cổ vũ nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy...

 

Về phương hướng nhiệm vụ: giữ vững và phát huy thành quả đã đạt được, đồng thời chuẩn bị tốt cho bộ đội đánh lớn hơn. Mùa mưa tới tập trung làm tốt bốn việc: phát huy tính chủ động, liên tục tiến công địch, bảo vệ vùng giải phóng; chuẩn bị cho mùa khô; tăng cường công tác hậu cần, bảo đảm yêu cầu trước mắt và tiếp theo...; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm thực hiện tốt kế hoạch mùa mưa, chuẩn bị tốt cho kế hoạch mùa khô.

 

Ngày 23 tháng 9 năm 1968

 

Sau khi nghiên cứu báo cáo về địch đang uy hiếp Phả Thí và kế hoạch phản công của ta, ngày 23 tháng 9 năm 1968, Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam có ý kiến như sau: nên quy định thời gian chuẩn bị, thời gian bắt đầu nổ súng cho các đơn vị trên các hướng với tinh thần tích cực, khẩn trương và cần kiểm tra, đôn đốc thực hiện, như vậy mới phát huy được sức mạnh của tập thể, tránh sự tùy tiện và chỉ đạo không chặt chẽ; nên tập trung giải quyết từng khu vực địch chiếm đóng hoặc tập trung...

 

Đối với khu vực Nhọt Phát, Huội Man, nên đề nghị Lào và Đoàn 959 cử cán bộ đến giúp để chỉ huy thống nhất các tiểu đoàn 585, 613 của Lào tác chiến ở hai khu vực đó. Đề phòng địch đổ bộ trực thăng xuống Phou Hin Sa, Phou Chích Non nhằm cắt tiếp tế của các đoàn, nên đề nghị hỏa lực (pháo cao xạ) ở phía sau lên và cùng Trung đoàn 217 chuẩn bị kế hoạch đánh địch ở khu vực này.

 

Ngày 29 tháng 9 năm 1968

 

Trước tình hình địch lấn chiếm Phả Thí, ngày 29 tháng 9 năm 1968, đồng chí Nguyễn Đôn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc và Đoàn 959 về phá kế hoạch lấn chiếm Phả Thí của địch. Đồng chí nêu rõ: nếu để mất Phả Thí sẽ gây ảnh hưởng xấu về chính trị và quân sự; nhân dân Sầm Nưa và các nơi khác sẽ thiếu tin tưởng vào cách mạng Lào và cho rằng lực lượng Vàng Pao vẫn mạnh, việc xây dựng cơ sở quần chúng gặp khó khăn; lực lượng vũ trang liên quân sẽ phát sinh vấn đề về tư tưởng... Từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giữ Phả Thí, đồng chí chỉ thị: phải phá bằng được kế hoạch lấn chiếm Phả Thí của địch. Nếu để mất Phả Thí, Đoàn 959 và Quân khu Tây Bắc (Việt Nam) phải chịu trách nhiệm.

 

Để phá kế hoạch lấn chiếm Phả Thí của địch, cần chú ý:

 

- Tăng cường chỉ đạo các lực lượng liên quân ở vùng này, Đoàn 959 và 766 phải cử cán bộ có đủ thẩm quyền xuống trực tiếp chỉ huy các lực lượng tác chiến; khi cần Quân khu Tây Bắc chỉ huy xuống tới tiểu đoàn.

 

- Có kế hoạch cụ thể cho từng đợt phản công lại một cách mạnh mẽ trên toàn khu vực; tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên từng khu vực, hết sức tránh kế hoạch chung chung, phân tán lực lượng, để cấp dưới tùy tiện trong chấp hành, đánh lẻ tẻ, không thành sức mạnh, dẫn tới bộ đội mệt mỏi mà không chuyển biến được tình hình.

 

- Đẩy mạnh tác chiến với nghi binh địch ở Na Khằng, Mương Hiềm, Loòng Chẹng, tranh thủ dùng hỏa lực đánh địch, làm như lực lượng liên quân tiến công thẳng vào nơi đó, để buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó. Ở vùng Keo Mo Năng nếu đã chuẩn bị tốt, quân khu nghiên cứu cho đánh ngay.

 

- Đề nghị Lào tăng cường cán bộ xuống cơ sở nắm dân, trấn áp bọn phản động, đầu sỏ và chỉ điểm; chỉ đạo các lực lượng của Lào ở vùng sâu tích cực hoạt động phối hợp chiến trường.

 

Ngày 12 tháng 11 năm 1968

 

Ngày 12 tháng 11 năm 1968, Quân uỷ Trung ương (Việt Nam) chỉ thị cho Quân khu uỷ 4, Tây Bắc, Đoàn uỷ 959 về nhiệm vụ giúp Lào trong Đông Xuân 1968-1969. Chỉ thị nêu rõ: Đông Xuân năm 1967-1968, quân và dân Lào đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai bị thất bại nặng nề, có tính chất chiến lược. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi, vẫn còn khuyết, nhược điểm mà Trung ương Lào đã vạch ra như: sự phát triển về chính trị, kinh tế không theo kịp thắng lợi về quân sự. Những khuyết, nhược điểm đó cũng phản ánh thiếu sót của Việt Nam trong việc giúp Lào.

 

Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ giúp Lào trong thời gian tới, chỉ thị nhấn mạnh: tiếp tục phát huy thế chủ động tấn công địch, đẩy mạnh đấu tranh ở cả hai vùng trên cả ba mặt quân sự, chính trị, ngoại giao. Tiếp tục giáng vào hai lực lượng vũ trang, bán vũ trang, tạo mọi điều kiện để Lào có thể hoàn thành nhiệm vụ trong bất kỳ tình huống nào.

 

Chỉ thị vạch ra một số mục tiêu cụ thể như: kết hợp tác chiến với binh vận, làm tan rã hàng ngũ địch. Ra sức xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt để làm công cụ sắc bén cho cuộc đấu tranh trong tình hình mới. Ra sức xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về vật chất, chính trị và tinh thần. Quân tình nguyện phải hết sức tranh thủ thời cơ, tích cực, chủ động tấn công liên tục. Quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công tiêu diệt, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường Lào.

 

Tháng 12 năm 1968

 

Tháng 12 năm 1968, tại Hà Nội (Việt Nam), Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam và Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào đã tiến hành hội đàm. Tham gia hội đàm, phía Việt Nam có các đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Văn Lương. Về phía Đảng Nhân dân Lào có các đồng chí: Cayxỏn Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Xuphanuvông, Khăm Tày Xiphănđon, Phumi Vôngvichít.

 

Đồng chí Cayxỏn Phômvihản trình bày sự phát triển của tình hình Lào trong thời gian qua, những thắng lợi to lớn, toàn diện của cách mạng Lào, làm cho cả thế và lực so sánh giữa hai bên có sự chuyển biến rõ rệt ngày càng có lợi cho lực lượng cách mạng. Về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Lào, đồng chí phân tích: chủ trương, đường lối đúng đắn đã thấm nhuần trong quần chúng nhân dân. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng có nhiều tiến bộ. Sự giúp đỡ của đội ngũ chuyên gia, bộ đội tình nguyện Việt Nam có hiệu quả và làm cho mối quan hệ Lào - Việt Nam ngày càng phát triển tốt đẹp.

 

Về khả năng diễn biến của tình hình Lào trong thời gian sắp tới, đồng chí Cayxỏn Phômvihản nhận định: ba khả năng trước kia vẫn tồn tại, song tới nay có sự phát triển như, khả năng Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương ít có hơn; khả năng Mỹ đưa quân vào tham chiến ở chiến trường Nam Lào lại càng ít; khả năng hoà hoãn ngày càng trở thành hiện thực, có chăng khác nhau là ở chỗ phía nào cũng muốn chạy đua để giành thế có lợi khi đàm phán.

 

Trước tình hình trên, đồng chí Cayxỏn Phômvihản nêu ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là: đẩy mạnh các hoạt động ở cả hai vùng trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao; liên tục tiến công địch, giành thêm thắng lợi làm cho so sánh lực lượng có sự chuyển biến tốt hơn nữa để đưa cách mạng tiến lên trong điều kiện mới. Đấu tranh buộc địch phải chấp nhận giải pháp chính trị trên cơ sở Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, nhằm đẩy lùi một bước chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ, duy trì tình hình hoà hoãn càng lâu càng tốt để củng cố thắng lợi...

 

Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn trên, đồng chí Cayxỏn Phômvihản trình bày một số công tác cụ thể về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và nội dung đàm phán trong thời gian tới.

 

Trong cuộc hội đàm, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: nhất trí với sự đánh giá của Đảng Nhân dân Lào về khả năng phát triển của tình hình Lào. Nhìn lại sự phát triển của cách mạng Lào, khẳng định đường lối, phương pháp, bước đi của cách mạng Lào thời gian qua hoàn toàn đúng đắn... Ngoài ra, đồng chí còn nêu lên một số ý kiến cụ thể về nhiệm vụ và công tác của cách mạng Lào như: tán thành việc đặt vấn đề phát triển kinh tế và văn hoá ở vùng giải phóng làm cho nhân dân có cơm ăn, áo mặc, có nhà ở đầy đủ, đời sống khá hơn, sức khỏe nhân dân tốt hơn. Việc củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ và tay sai cần được mở rộng hoạt động trong vùng kiểm soát của phái hữu. Lập Chính phủ liên hiệp không phải là mục đích, nhưng phải biết sử dụng nó làm công cụ quan trọng để đấu tranh chống Mỹ và các thế lực phản động.

 

Cuối cùng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu nhấn mạnh: sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.

 

Tổng kết thành tích chiến đấu của liên quân Lào - Việt trong năm 1968

 

Xuất phát từ tình đoàn kết chiến đấu giữa hai nước, trong năm 1968, quân giải phóng nhân dân Lào và quân tình nguyện Việt Nam đã đánh 1.114 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 19.234 tên địch. Trong số đó có 8.524 tên chết, 2.449 tên bị thương, 2.882 tên bị bắt sống, 4.133 tên ra hàng, 984 tên rã ngũ, 262 tên nổi dậy làm binh biến. Liên quân Lào - Việt Nam thu được 5.847 khẩu súng các loại, 77 xe ôtô, 247 đài vô tuyến điện, 310 tấn dụng cụ chiến tranh và phá huỷ 3 trạm rađa (Bạn Na, Phả Thí, Pha Lan), 24 kho vũ khí, 14 cầu, 6 đài vô tuyến điện, bắn chìm 36 canô, xuồng máy, bắn rơi 260 máy bay.

 

(còn tiếp)


 

Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930-2007), Biên niên sự kiện, tập 1 (1930-1975), Nxb. CTQG, H, 2011.