70 năm đã qua, kể từ ngày thành lập chính quyền cách mạng, phát huy truyền thống Anh hùng của vùng quê cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã và đang có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt, luôn tự hào vì đã có những đóng quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa mùa thu lịch sử năm ấy.
. |
Cuộc vận động cách mạng giành chính quyền tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 1939-1945 là một trong những minh chứng về chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng trong công tác tư tưởng, đoàn kết toàn dân đấu tranh, giành độc lập cho dân tộc. Khi nói về nhiệm vụ xây dựng lực lượng cách mạng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: “Chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa chẳng phải bắt đầu từ sự mua sắm vũ khí chế tạo võ trang, mà bắt đầu bởi sự giác ngộ dân, bởi sự tổ chức quần chúng. Người trước đã, rồi đến súng”.
|
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, địa hình phức tạp và chia cắt, cư dân trong tỉnh đa số là đồng bào dân tộc ít người, đại bộ phận là nông dân, phân bố trên địa bàn rộng. Ngày ấy, điều kiện nguồn lực tham gia công tác vận động cách mạng còn mỏng, các yếu tố kỹ thuật hỗ trợ chưa có; chính sách “ngu dân” thâm độc của thực dân Pháp và sự khác nhau về phong tục, tập quán, ngôn ngữ của các dân tộc là những trở ngại lớn cho việc vận động cách mạng. Trong hoàn cảnh như vậy, công tác tuyên truyền, vận động cách mạng đòi hỏi rất nhiều ở cách làm khéo léo, vận dụng linh hoạt của cán bộ, đảng viên làm công tác vận động.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 11 năm 1939, đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh và nhiều cán bộ của Trung ương, Xứ uỷ Bắc Kỳ thường xuyên qua lại Thái Nguyên để tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng. Một số địa phương trong tỉnh đã bắt đầu hình thành các nhóm thanh niên trung kiên, làm hạt nhân nòng cốt cho đấu tranh chính trị, đồng thời là lực lượng chuẩn bị để xây dựng các đội tự vệ chiến đấu. Ở Phú Bình, nhóm thanh niên trung kiên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động trong nhân dân có tính công khai như nhóm đọc báo, nhóm truyền bá Quốc ngữ…; nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, lực lượng thanh niên trung kiên đã làm nòng cốt tổ chức rải truyền đơn kêu gọi chống chiến tranh đế quốc và treo cờ búa liềm ở Chợ Đồn (xã Kha Sơn). Ở Võ Nhai, tháng 6-1940, nhân dân tham gia đấu tranh chống bắt phu làm đường Đình Cả,…
Từ hoạt động của các nhóm thanh niên trung kiên, được sự giúp đỡ của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc Kỳ, các cơ sở Đảng trong tỉnh đã tích cực vận động nhân dân thành lập đội tự vệ chiến đấu và tổ chức huấn luyện chính trị, quân sự ở nhiều nơi như Võ Nhai, Phú Bình, Phổ Yên... để bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, trừ gian và chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.
Phong trào cách mạng ở Việt Bắc phát triển mạnh. Đặc biệt sau khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), thực dân Pháp bắt đầu thực hiện cuộc đàn áp, khủng bố dã man. Thủ đoạn của thực dân Pháp là vừa dụ dỗ, vừa đàn áp để phá cơ sở cách mạng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, chia rẽ nhân dân với những người cách mạng. Tuy nhiên, do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nên đồng bào các dân tộc trong tỉnh vẫn tin tưởng, đi theo cách mạng và nâng cao cảnh giác.
Không đạt được mưu đồ dụ dỗ, thực dân dân Pháp đã thực hiện chính sách khủng bố, đàn áp. Chúng củng cố và xây dựng thêm nhiều đồn binh, tạo thành thế bao vây, phong toả; tăng cường mật thám xuống tận thôn, bản, các con đường vào rừng để truy tìm dấu vết cách mạng; tuyên truyền, phao tin đồn nhảm gây hoang mang trong quần chúng và chia rẽ nhân dân với Cứu quốc quân. Dồn dân vào trại tập trung, thực dân Pháp nhằm hai mục đích: cắt đứt mọi sự liên hệ giữa Cứu quốc quân với nhân dân; khủng bố, uy hiếp tinh thần nhân dân các dân tộc không chỉ vùng Võ Nhai mà cả vùng Việt Bắc. Các hành động khủng bố tàn bạo của kẻ thù tuy có gây cho ta nhiều khó khăn nhưng nhân dân sống trong các trại tập trung vẫn tìm cách lợi dụng sơ hở của địch để liên lạc, tiếp tế cho cán bộ, đảng viên và Cứu quốc quân. Ở trong rừng sâu, ban ngày cán bộ, chiến sĩ Cứu quốc quân tích cực huấn luyện quân sự, học tập chính trị, ban đêm bí mật về các trại tập trung và các làng bản để liên lạc, động viên và hướng dẫn nhân dân đấu tranh.
Nhờ hoạt động tích cực của cán bộ, đảng viên và chiến sĩ Cứu quốc quân, phong trào cách mạng của tỉnh vẫn được giữ vững. Ở những nơi bị địch khủng bố trắng, Cứu quốc quân từng bước xây dựng và củng cố lại phong trào. Các tổ công tác của Cứu quốc quân đã hòa mình trong phong trào quần chúng, thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng lao động sản xuất với bà con các dân tộc để củng cố và phát triển các Hội cứu quốc, các đội tự vệ. Cứu quốc quân đã tổ chức các buổi tuyên truyền bằng hình thức triển lãm tranh ảnh, diễn thuyết về tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật, về những tấm gương hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng.
Ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập hội nghị cán bộ các tỉnh đã được giải phóng, tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên, đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban lâm thời Khu giải phóng, do Hồ Chí Minh đứng đầu. Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh được thực hiện nhằm xây dựng Khu giải phóng vững mạnh về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Dưới sự lãnh đạo của của Uỷ ban lâm thời Khu giải phóng, các tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh ở tỉnh Thái Nguyên đã động viên nhân dân tăng gia sản xuất; thanh toán nạn mù chữ, thực hiện đời sống mới; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết; nam nữ bình quyền; vận động giảm tô, giảm tức, hoãn nợ... Những chính sách của Khu giải phóng có giá trị to lớn cổ vũ mạnh mẽ quân và dân Thái Nguyên trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, góp phần tạo ra tiền đề cho cuộc nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Với các biện pháp tuyên truyền sát thực, tích cực, sáng tạo, đồng bào các dân tộc trong tỉnh được giác ngộ cách mạng cao, hăng hái tham gia, ủng hộ cách mạng, bảo vệ cơ sở cách mạng, đóng góp lương thực, thực phẩm để cung cấp cho Thủ đô Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chỉ tính riêng châu Định Hoá, trong vòng mười ngày đầu cuộc vận động, nhân dân đã ủng hộ gần 10 tấn thóc, 100 con trâu, trên 100 con lợn và hàng trăm kg thực phẩm khác. Uỷ ban nhân dân cách mạng châu Định Hoá đã huy động gần 100 nam, nữ thanh niên gùi, gánh, đưa số lương thực, thực phẩm này vượt đèo De sang Tân Trào phục vụ kịp thời Hội nghị toàn quốc của Đảng và quốc dân Đại hội.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), thực hiện Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng, nhiều xã thôn và một số huyện trong tỉnh đã chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền bộ phận. Đến chiều ngày 16/8/1945, một đơn vị quân giải phóng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho Cách mạng Tháng Tám. Sáng 20/8/1945, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy một mũi quân từ chùa Đán tiến vào thị xã Thái Nguyên, bao vây, tấn công phát xít Nhật giải phóng thị xã. Chiều cùng ngày, một cuộc mít tinh quần chúng được tổ chức tại sân vận động thị xã Thái Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc, tuyên bố xoá bỏ chính quyền của Nhật và tay sai, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên, thực hiện các chính sách của Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch ra mắt quần chúng nhân dân, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thái Nguyên.
Công tác vận động cách mạng thời kỳ 1939-1945 ở Thái Nguyên, nơi đại bộ phận nhân dân là nông dân, đồng bào dân tộc ít người cho thấy những mặt tích cực của người dân trong tỉnh. Từ năm 1941, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”, xác định “Dân tộc giải phóng” là nhiệm vụ cần kíp và trên hết nhưng người dân vẫn tiếp tục tham gia cách mạng đông đảo, nhiệt thành hơn. Điều đó cho thấy, nhân dân có tinh thần giác ngộ cách mạng rất cao, họ đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết.
Trở thành vùng căn cứ cách mạng, nơi diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sớm, khác với các vùng khác trong cả nước, Thái Nguyên chịu sự đàn áp, khủng bố ác liệt, tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Nhiều nhà cửa bị phá hủy, nhiều người bị sát hại, song nhân dân vẫn kiên cường, bền bỉ bám trụ, giữ đất, bảo đảm tuyệt đối bí mật cho cách mạng. Đồng thời chính họ trở thành lực lượng đông đảo bổ sung cho cách mạng, đưa cách mạng phát triển. Chính sự giác ngộ, ủng hộ tích cực và kiên định của những người dân yêu nước, Thái Nguyên đã trở thành một trong những căn cứ địa vững chắc cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của quân và dân các dân tộc trong tỉnh, nhất là trong những năm đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1939-1945, chúng ta có thể đúc kết, rút ra những bài học kinh nghiệm về công tác vận động cách mạng, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới hôm nay, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc ít người. Để vận động nhân dân có hiệu quả, tổ chức Đảng các cấp cần đưa ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời và phù hợp với nguyện vọng của đồng bào, trong đó phải chú ý đến chính sách dân tộc bình đẳng. Công tác tuyên truyền, vận động cần linh hoạt, sáng tạo, sát với điều kiện và hoàn cảnh thực tế, phù hợp với ngôn ngữ và phong tục tập quán của mỗi địa phương. Thống nhất giữa tuyên truyền với hoạt động thực tiễn, giữa mục tiêu lý tưởng của Đảng với mục đích thiết thân của người dân để tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh.