Sáng 20-10, thay mặt Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về tình hình kinh tế - xã hội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, với sự nỗ lực phấn đấu cao nhất, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011-2015 đều đạt kết quả khả quan. Nổi bật là kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, nền kinh tế tiếp tục phục hồi rõ nét; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ ngoại tệ tăng nhanh, đạt mức cao nhất từ trước tới nay; mặt bằng lãi suất tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 5 năm qua.
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ, trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội 4 năm 2011-2014, ước thực hiện năm 2015, Báo cáo ước khả năng thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, trong số 26 chỉ tiêu chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường được Quốc hội thông qua, trong đó ước thực hiện có 17 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, có 9 chỉ tiêu ước không đạt kế hoạch.
Nguyên nhân một số chỉ tiêu đạt kế hoạch thấp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ rõ, về mặt khách quan là do sự phục hồi chậm của kinh tế thế giới, những diễn biến phức tạp về chính trị và xung đột ở một số khu vực, tranh chấp chủ quyền biển đảo trong khu vực và Biển Đông; những yếu kém của nội tại nền kinh tế từ trước càng làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn hơn.
Ngoài ra, trong khi xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm trình Quốc hội, mặc dù đã tính đến các yếu tố trên, nhưng vẫn cố gắng bám sát chỉ tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra, nên chưa thật sát với tình hình thế giới và trong nước thời gian qua. Như việc xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng GDP là 6,5-7% (Nghị quyết Đại hội XI là 7 - 7,5%); hoặc chỉ tiêu tạo việc làm lao động, vẫn giữ 1,6 triệu lao động, trong khi đã điều chỉnh giảm tăng trưởng GDP.
Kinh tế vĩ mô dần ổn định
Theo báo cáo của Chính phủ, lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn khoảng 2% vào năm 2015, thấp nhất trong 15 năm qua. Mặt bằng lãi suất giảm, năm 2015 chỉ bằng 40% so với năm 2011; dư nợ tín dụng tăng 17%, cao nhất kể từ năm 2011, chất lượng tín dụng từng bước được cải thiện. Tỷ giá được điều chỉnh phù hợp, thị trường ngoại hối cơ bản ổn định và niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên. Trong 5 năm qua, kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 18%/năm, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh; nhập khẩu tăng 15%/năm; tỷ lệ nhập siêu giảm từ 10,2% năm 2011 xuống còn 3,6% năm 2015. Cùng với đó, việc quản lý ngân sách nhà nước được tăng cường, thu từ dầu thô giảm mạnh nhưng thu nội địa tăng nên tổng thu ngân sách năm 2015 vẫn tăng 7,4% và 5 năm gấp khoảng 2 lần so với giai đoạn trước. Chi ngân sách gấp 2,17 lần, tăng chi cho con người, bảo đảm an sinh xã hội. Bội chi bình quân khoảng 5% GDP/năm. Nợ công tập trung cho đầu tư phát triển đến hết năm 2015 khoảng 61,3% GDP, nợ Chính phủ 48,9%, nợ nước ngoài của quốc gia 41,5%. Vốn FDI thực hiện đạt 58,2 tỷ USD, tăng 31%. Vốn ODA giải ngân đạt khoảng 24 tỷ USD, tăng 70,5%. An ninh năng lượng và cân đối cung cầu các mặt hàng quan trọng được bảo đảm. Quản lý thị trường, giá cả được tăng cường; thực hiện bình ổn giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.
Sản xuất công nghiệp phục hồi và tăng mạnh trong những năm cuối, trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông lâm thủy sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm; riêng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,6%. Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định với giá trị sản xuất tăng 3,85%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13,5%/năm. Khách quốc tế trong năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp gần 1,6 lần so với năm 2010.
Trong 5 năm, cả nước tập trung huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đạt được kết quả quan trọng. Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và tạo diện mạo mới cho đất nước. Như vậy, bằng việc triển khai thực hiện đồng bộ tái cơ cấu nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực quan trọng nên cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội chuyển dịch tích cực, trong đó đầu tư công giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn khoảng 30% năm 2015, đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong nước tăng từ 36,1% lên 42%.
Tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 5 năm qua
Theo đó, nền kinh tế nước ta phục hồi khá rõ nét và đạt tốc độ tăng trưởng cao so với kế hoạch đề ra và cao hơn so với dự báo trước đây. Tốc độ tăng GDP 9 tháng đầu năm đạt 6,5%, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ 4 năm trước; trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 2,08% (cùng kỳ năm 2014: 2,94%); khu vực công nghiệp và xây dựng ước tăng 9,57% (cùng kỳ năm 2014: 5,75%); dịch vụ ước tăng 6,17% (cùng kỳ năm 2014: 5,94%).
Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng nhanh sau từng Quý. GDP quý I tăng 6,12%, quý II tăng 6,47% và quý III tăng 6,81%, cao hơn mức tăng cùng kỳ 4 năm trước (quý III-2011: 6,21%; quý III-2012: 5,39%; quý III-2013: 5,54%; quý III-2014: 6,07%). Dự báo cả năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt hơn 6,5% là mức tăng cao nhất trong 5 năm qua.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 5 năm được duy trì ở mức hợp lý và phục hồi khá cao vào những năm cuối; chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên. Tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt trên 6,5% (cao nhất trong 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra 6,2%). Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng; GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD.
Tập trung tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và thị trường tài chính
Về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tập trung vào cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; cụ thể đã sắp xếp 465 DNNN, trong đó cổ phần hóa 353 doanh nghiệp. Còn về tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đến nay đã có 9 huyện và 1.132 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 12,7%. Dự kiến đến cuối năm 2015, có khoảng 1.500 xã đạt chuẩn, chiếm 16,8%.
Về tái cơ cấu thị trường tài chính mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại, Chính phủ đã tập trung xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Cụ thể, đến tháng 9-2015, nợ xấu còn 2,9% (tháng 9-2012 là 17,43%) và đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm; cung ứng vốn tốt hơn cho nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015.
Mặc dù đạt được những kết quả đáng tích cực trong việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế giai đoạn 2011 – 2015 và năm 2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận, đến nay kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc, cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn, cơ cấu chưa hợp lý, bội chi còn cao. Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn. Đặc biệt,chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém còn nhiều khó khăn. Huy động nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước còn hạn chế. Quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới chưa đạt yêu cầu, hiệu quả đầu tư công chưa cao. Tái cơ cấu DNNN và sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp chưa đạt mục tiêu đề ra.
Cho rằng, chúng ta đã ứng phó kịp thời, có hiệu quả với những biến động kinh tế, chính trị khó lường của thế giới trong năm 2015 và đạt được những kết quả đáng khích lệ về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhìn nhận, kinh tế nước ta, nhất là khu vực kinh tế trong nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi còn cao; nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, nợ xấu còn lớn và xử lý nợ xấu còn nhiều vướng mắc; doanh nghiệp trong nước và khu vực nông nghiệp, xuất khẩu nông sản đang rất khó khăn; nhập siêu tăng trở lại.
Thể chế kinh tế thị trường chậm được hoàn thiện, còn nhiều hạn chế, các loại thị trường vận hành chưa thông suốt. Thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn đang là vấn đề xã hội bức xúc; chất lượng nguồn nhân lực thấp; kết quả ứng dụng khoa học - công nghệ còn nhiều hạn chế. Tái cơ cấu trong các ngành, lĩnh vực còn chậm, tái cơ cấu và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chậm, chưa đạt tiến độ đề ra.
Xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn, nhất là về nguồn lực. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, một số nơi còn mang tính phong trào, chưa huy động được sự tham gia trực tiếp của người dân và nguồn lực xã hội hoá; tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo ở những nơi đặc biệt khó khăn và trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao.
Một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều mặt hạn chế, yếu kém về văn hoá, xã hội khắc phục còn chậm; đạo đức xã hội ở một bộ phận không nhỏ xuống cấp; tình trạng tham nhũng chưa được đẩy lùi. Hiệu quả quản lý và sử dụng tài nguyên còn thấp; ô nhiễm, suy thoái môi trường còn xảy ra ở nhiều nơi. Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, đảo đang đứng trước những thách thức mới. Sự chuẩn bị để hội nhập sâu hơn sau khi ký các hiệp định thương mại (FTA, TPP,…) của ta còn nhiều bất cập.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định, kinh tế thế giới năm 2016 tiếp tục phục hồi, nhưng tốc độ phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức, đặc biệt là rủi ro địa - chính trị, biến động khó lường trên thị trường tài chính và giá dầu. Do đó, những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế còn rất lớn. Đồng thời, năm 2016 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; bên cạnh những cơ hội thuận lợi, nước ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Với nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội đề ra cho năm 2016, ngay từ đầu năm Chính phủ sẽ triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ có trọng tâm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phù hợp với thực tế tình hình.