Thái Nguyên có diện tích tự nhiên và dân số hiện nay khá lớn so với các tỉnh trong vùng trung du, miền núi phía Bắc. Với trên 70% dân số ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và vùng cao, rừng núi hiểm trở, có nhiều hang động, thuận lợi trong chiến tranh, nhưng lại có khó khăn nhiều trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Trong số 76 xã là An toàn khu (ATK), trong đó có huyện Định Hóa là Khu di tích lịch sử Quốc gia ATK đặc biệt, nhưng nơi đây chủ yếu là những xã nằm trong diện khó khăn và đặc biệt khó khăn, có đông đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống tập trung, chiếm tỷ lệ gần 30% về dân số.
Thái Nguyên cũng là nơi hội tụ, giao lưu, sinh sống lâu đời của 46 dân tộc anh em, trong đó với 8 DTTS có số đông trên 2.000 người, về cơ bản được đánh giá là đoàn kết, hoà thuận, cố kết cộng đồng tương đối là bền chặt, đây chính là những nét đẹp truyền thống xưa và nay của các dân tộc anh em cùng sinh sống tại tỉnh nhà.
Thái Nguyên còn là một trong những địa bàn được Trung ương Đảng và Bác Hồ lựa chọn là trung tâm hoạt động trong 9 năm trường kháng chiến, nơi phát tích của Chiến dịch Điện Biên Phủ, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, trong đó có nhiều tấm gương về sự anh dũng, kiên cường trong chiến đấu và sự đùm bọc, sẻ chia, che chở của đồng bào DTTS. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thái Nguyên có 3 Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và có hơn 2.600 liệt sĩ là người DTTS đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập - tự do của dân tộc (chiếm tỷ lệ 25%).
Trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, hàng năm, Thái Nguyên có bình quân hơn 20.000 đảng viên là người DTTS (chiếm tỷ lệ 21%); trong số cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý qua các nhiệm kỳ, bình quân có tới gần 20% là người DTTS, trong đó có nhiều đồng chí đảm nhận các chức danh chủ chốt của cấp huyện, cấp tỉnh và cấp Trung ương.
Trong những năm đổi mới, Thái Nguyên có 56 GS, PGS, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sĩ Nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân; 02 Anh hùng Lao động; hơn 1.690 chủ doanh nghiệp, doanh nhân, kỹ sư, kiến trúc sư là người DTTS.
Thực hiện Quyết tâm thư của Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Thái Nguyên lần thứ II, năm 2014 cho đến nay, kết quả có khá nhiều chuyển biến theo hướng tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội. Số hộ nghèo vùng đồng bào DTTS giảm bình quân gần 4%/năm (cao hơn mức bình quân chung của cả tỉnh 1,5 lần); hiện nay, Thái Nguyên đang nằm trong tốp đầu của cả nước về tỷ lệ các xã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn; số xã nông thôn mới (NTM) vùng DTTS cao hơn 2 lần bình quân chung cả nước; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 99,67% hộ dân vùng núi có điện lưới phục vụ sinh hoạt; 91% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đạt chuẩn về y tế. Tỉnh đã hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư và chấm dứt tình trạng di cư tự do; giải quyết tốt vấn đề đất sản xuất cho đồng bào. Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội đã có bước phát triển tích cực, dân trí vùng đồng bào dân tộc được nâng lên, bản sắc văn hóa dân tộc được bảo tồn; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường, nhân dân đồng thuận, góp phần tích cực củng cố và tăng cường niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu kể trên, công tác dân tộc của tỉnh cũng còn bộc lộ một số tồn tại và hạn chế, đó là: KT-XH vùng DTTS tuy đã có bước phát triển nhưng chưa toàn diện; đời sống vật chất của đồng bào DTTS ở một số nơi còn có nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo tuy có giảm nhưng chưa nhiều, chưa được như mong muốn; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn hạn chế; việc đào tạo nghề tuy đã được quan tâm nhưng hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát sinh; công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào cũng còn bất cập; một số bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc đang có nguy cơ bị mai một; cơ sở hạ tầng tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn chắp vá và dàn trải; năng lực, trình độ của cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều vấn đề cần phải được quan tâm bồi dưỡng; tình hình an ninh trật tự vùng DTTS ở một số nơi còn tiềm ẩn yếu tố phát sinh.
Để chủ động khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, ngoài những nội dung phương hướng, nhiệm vụ đã được đề cập, đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là: Tiếp tục tuyên truyền, vận động, quán triệt triển khai nhằm nâng cao nhận thức về công tác dân tộc và chính sách dân tộc của Trung ương và của tỉnh, nhất là về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung và DTTS nói riêng trong nội dung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong xây dựng NTM, trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển trước mắt cũng như lâu dài, mang tầm chiến lược, tính khả thi cao, hiệu quả thiết thực.
Hai là: Tiếp tục triển khai đầy đủ, nghiêm túc, kịp thời, nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Trung ương và của tỉnh, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, điện, đường, trường, trạm và các thiết yếu khác về văn hóa, y tế, giáo dục, đảm bảo nhu cầu tối thiểu trong việc đi lại, sinh hoạt của đồng bào, trên cơ sở đó từng bước nâng cấp hài hòa, với tinh thần “Nhà nước với nhân dân cùng làm, không trông chờ, ỷ lại, hãy chung tay vì người nghèo, không để ai bỏ lại phía sau”.
Ba là: Tiếp tục nghiên cứu ban hành các chủ trương về cơ chế, chính sách hợp lý, theo hướng: Giảm cho không, tăng cho vay ưu đãi, hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ hướng nghiệp, tạo việc làm ổn định; hỗ trợ kinh phí duy trì các hoạt động và phát huy các giá trị về bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là văn hóa dân tộc truyền thống; hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm địa phương mang tính liên doanh, liên kết đủ sức cạnh tranh lành mạnh trên thị trường theo hướng phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là: Quan tâm và tiếp tục củng cố kiện toàn xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là vùng có đồng bào DTTS ngày càng trong sạch, vững mạnh, nhân dịp chuẩn bị công tác nhân sự Đại hội Đảng các cấp, trong đó chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng nguồn cán bộ là người DTTS, hợp lý về cơ cấu và số lượng. Quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở theo hướng gần dân, sát dân, hiểu phong tục tập quán, hiểu tiếng nói, chữ viết của đồng bào, nghe dân nói, nói dân nghe, tích cực, chân thành, kiên trì và thận trọng, tế nhị, chắc chắn và hiệu quả, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ở địa bàn nơi công tác có đông đồng bào là người DTTS.
Năm là: Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua ái quốc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến gắn với việc phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người uy tín, người có tầm ảnh hưởng trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh. Đồng thời, làm tốt công tác nắm tình hình và chủ động kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh có liên quan đến an ninh chính trị, nhất là việc phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết không để hình thành các “điểm nóng” về dân tộc, tôn giáo trên địa bàn toàn tỉnh.
Thực hiện lời dạy của Bác, đề nghị đồng bào các DTTS đang sinh sống trên địa bàn tỉnh nhà tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, ra sức thi đua lao động, sản xuất để thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, góp phần xây dựng tỉnh Thái Nguyên phát triển nhanh và bền vững.
Trong những năm gần đây, tỉnh ta đặc biệt quan tâm công tác xóa đói, giảm nghèo vùng đồng bào DTTS, cụ thể: Đầu tư trên 6.000 tỷ đồng thực hiện các chương trình 134, 135; chính sách hỗ trợ tín dụng, đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt; chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào DTTS; Đề án phát triển KT-XH, ổn định sản xuất và đời sống các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc Mông sinh sống (Đề án 2037) với tổng kinh phí hỗ trợ gần 123 tỷ đồng; Dự án đưa điện lưới Quốc gia đến 76 xóm, bản ở vùng cao chưa được đầu tư về điện lưới, với tổng kinh phí trên 250 tỷ đồng, đến nay đã cơ bản hoàn thành; có 61/114 xã vùng DTTS đã hoàn thành xây dựng NTM; xây mới toàn bộ 33/33 phòng học tạm ở vùng cao; xây dựng Chương trình phát triển KT-XH vùng ATK và vùng DTTS đặc biệt khó khăn đến năm 2020; ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng điện, đường, trường, trạm và các thiết chế văn hóa cho đồng bào ở vùng DTTS; dư nợ vốn vay tín dụng chính sách xã hội hơn 16.000 tỷ đồng... |